Tóm tắt luận án Nghiên cứu sự điều chỉnh quản trị công ty ở Đông Á sau khủng hoảng
- Người chia sẻ :
- Số trang : 27 trang
- Lượt xem : 8
- Lượt tải : 500
- Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt luận án Nghiên cứu sự điều chỉnh quản trị công ty ở Đông Á sau khủng hoảng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên
Một vài thập niên trước khủng hoảng tài chính 1997-1998, ở Đông Á, các tập đoàn gia đình trịlà động lực mạnh mẽcho tăng trưởng kinh tế ởkhu vực này. Mô hình quản trịcông ty (QTCT) gia đình trị, kết hợp với hội đồng quản trị(HĐQT) có đại diện của chính phủvà ngân hàng cung cấp vốn cho công ty, đã tạo điều kiện thuận lợi cho các công ty Đông Á được tiếp cận với nguồn vốn dài hạn, duy trì tỷlệ đầu tưcao, từ đó nâng cấp công nghệvà cải thiện năng lực cạnh tranh. Khu vực công ty ở Đông Á đã gặt hái nhiều thành công, với tỷsuất lợi nhuận trên vốn cao hơn nhiều so với các công ty trên thế giới với con sốlà 10% – 15% giai đoạn 1986-1996. Cuộc khủng hoảng Châu Á 1997-1998 diễn ra đã phơi bày nhiều yếu kém của nền kinh tếcác nước Đông Á. Theo nhiều đánh giá, nguyên nhân sâu xa bắt nguồn từcấu trúc thểchếcủa khu vực công ty. Cấu trúc HĐQT gồm cả đại diện của chính phủvà khu vực tài chính đã tạo điều kiện cho cho các tập đoàn lớn tại Đông Á sẵn sàng mạo hiểm, tiến hành vay các khoản tín dụng ngắn hạn để đầu tưdài hạn. Quy mô và quyền lực của các tập đoàn gia đình trịtrởnên lớn mạnh đến mức chính phủkhông thểquản lý, lợi ích của các tập đoàn trởnên mâu thuẫn với lợi ích của xã hội. Cuộc khủng hoảng đã cho thấy vấn đềQTCT không chỉquan trọng đối với việc bảo vệquyền lợi của các nhà đầu tư, mà còn giúp giảm thiểu rủi ro thịtrường và giữ ổn định tài chính. Một trong những ưu tiên hàng đầu của các nước Đông Á sau khủng hoảng là thiết lập một khuôn khổthểchếhiệu quả để điều chỉnh hoạt động của các công ty vận hành trong nền kinh tế. Có nhiều nghiên cứu cho rằng, sau khủng hoảng các nước Đông Á tập trung điều chỉnh hệthống QTCT của mình theo mô hình Anh-Mỹ, mô hình QTCT dựa vào thịtrường, ở đó quyền lợi của cổ đông được đặt lên hàng đầu và thịtrường đóng vai trò điều chỉnh hành vi và thái độcủa các ban giám đốc điều hành và của HĐQT. Một số nghiên cứu khác lại cho rằng việc áp đặt mô hình QTCT Anh-Mỹlà không phù hợp trong môi trường Đông Á. Việt Nam là nước nằm trong khu vực Đông Nam Á, chúng ta cũng bị ảnh hưởng không nhỏcủa khủng hoảng tài chính Châu Á 1997-1998. Khu vực công ty và thịtrường tài chính tại nhiều nước Đông Á có lịch sửdài và phát triển hơn chúng ta. Thịtrường vốn Việt Nam mới bắt đầu vận hành chính thức từnăm 2001. Từ đó đến nay, thịtrường vốn đã bắt đầu đóng góp ngày càng quan trọng vào tổng sản phẩm quốc nội (GDP), đồng thời thu hút được sựquan tâm và luồng tiền đầu tưkhông chỉcủa các nhà đầu tưtrong nước mà của cảcác nhà đầu tưnước ngoài. Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (SSC), với tưcách là cơquan quản lý nhà nước đối với thịtrường vốn, đã cho ra đời nhiều quy định điều chỉnh hoạt động của thịtrường. Tuy nhiên, cho đến năm 2005, các quy định vẫn chưa phải là đầy đủ để điều chỉnh thị trường. Ngoài ra, các quy định này chưa được tuân thủbởi các bên tham gia thịtrường, đặc biệt là các công ty đại chúng. Mặc dù vai trò của QTCT là rất quan trọng trong việc tạo ra một môi trường đầu tưhấp dẫn và một thịtrường tài chính hiệu quả, tuy nhiên, theo đánh giá của Chương trình Phát triển Khu vực Sông Mê Kông (MPDF) thuộc Công ty Tài chính Quốc tế(IFC) năm 2004, QTCT vẫn còn là một khái niệm mới [30, tr.9-10] đối các công ty Việt Nam và vẫn còn nhiều cách hiểu không đúng vềQTCT trong các doanh nghiệp Việt Nam.
