Tóm tắt Luận án Kinh nghiệm xúc tiến đầu tư trực tiếp nước ngoài ở một số nước khu vực Đông á và bài học cho Việt Nam

  • Người chia sẻ :
  • Số trang : 19 trang
  • Lượt xem : 7
  • Lượt tải : 500
  • Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại

NHẬP MÃ XÁC NHẬN ĐỂ TẢI LUẬN VĂN NÀY

Nếu bạn thấy thông báo hết nhiệm vụ vui lòng tải lại trang

Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Kinh nghiệm xúc tiến đầu tư trực tiếp nước ngoài ở một số nước khu vực Đông á và bài học cho Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên

Kinh nghiệm thu hút vμ sử dụng có hiệu quả vốn FDI của các nền kinh tế trong khu vực lμ coi xúc tiến đầu tư (XTĐT) như một công cụ hữu hiệu để thu hút vốn đầu tư, trở thμnh một hoạt động ngμy cμng được gia tăng, không chỉ ở các nước phát triển mμ còn ở các nước đang phát triển. Công tác Xúc tiến đầu tư của Việt Nam đang trong ở giai đoạn đầu của quá trình chuyên nghiệp hóa. Giai đoạn 1995-2000, XTĐT xem như một giai đoạn tiền dự án và chấm dứt sau khi dự án được cấp giấy phép đầu tư. Giai đoạn 2000-2005 đánh dấu bước chuyển biến quan trọng về XTĐT, từ hình thành dự án sang triển khai dự án nhưng chỉ tập trung thu hút vốn từ bên ngoài vào. Giai đoạn từ 2005 đến nay đã bắt đầu coi trọng XTĐT trong nước, liên kết hoạt động XTĐT với hoạt động ngoại giao, xúc tiến thương mại và du lịch, thiết lập hệ thống chân rết XTĐT ở các thị trường trọng điểm và triển khai thực hiện Chương trình XTĐT quốc gia. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy công tác XTĐT ở Việt Nam vẫn thiếu một tầm nhìn dμi hạn có tính chiến lược vμ hệ thống, chưa hiệu quả, chưa có sự thống nhất và thiếu sự chuyên nghiệp. Đó lμ nguyên nhân dẫn đến lúng túng, mẫu thuẫn, chồng chéo khi xây dựng nội dung, chương trình; quá trình thực hiện XTĐT vẫn theo kiểu hoạt động theo phong trμo, không tính đến hiệu quả; cơ chế phối hợp trong công tác XTĐT chưa được quy định cụ thể; sự gắn kết giữa các hoạt động XTĐT – xúc tiến thương mại vμ xúc tiến du lịch chưa rõ rμng; vai trò quản lý nhμ nước của các Bộ, ngμnh về XTĐT còn hạn chế; việc báo cáo, trao đổi thông tin về công tác XTĐT chưa có cơ chế; năng lực XTĐT còn yếu, nhất lμ trình độ cán bộ, cơ sở vật chất vμ điều kiện hoạt động. Hiện tượng “mạnh ai người đấy làm”, “người người làm xúc tiến đầu tư, nhà nhà làm xúc tiến đầu tư” đang bộc lộ ngày càng rõ sự yếu kém.