Tóm tắt Luận án Các nhân tố tác động đến hành vi quản trị lợi nhuận của người quản lý tại các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam

  • Người chia sẻ :
  • Số trang : 37 trang
  • Lượt xem : 10
  • Lượt tải : 500
  • Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại

NHẬP MÃ XÁC NHẬN ĐỂ TẢI LUẬN VĂN NÀY

Nếu bạn thấy thông báo hết nhiệm vụ vui lòng tải lại trang

Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Các nhân tố tác động đến hành vi quản trị lợi nhuận của người quản lý tại các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên

Báo cáo tài chính cung cấp những thông tin hữu ích về tình hình hình tài chính, kết quả kinh doanh, các dòng tiền và những thông tin bổ sung khác giúp cho các đối tượng sử dụng thông tin đưa ra các quyết định kinh tế (Epstein và Jermakowicz, 2008; Mackenzie và cộng sự, 2012). Mức độ hữu ích của thông tin tài chính phụ thuộc nhiều vào chất lượng thông tin về lợi nhuận (Ball và Shivakumar, 2005). Thông tin về lợi nhuận và các bộ phận hợp thành của nó ngày càng đóng vai trò quan trọng cho các bên liên quan, có thể đo lường hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp và dự đoán được dòng tiền trong tương lai (Dechow, Kothari và Watts, 1998). Chính vì vậy, chất lượng thông tin về lợi nhuận được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước. Tính linh hoạt của kế toán cho phép người quản lý vận dụng để cung cấp thông tin thích hợp và đáng tin cậy giúp cho các bên liên quan đánh giá hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, kịp thời thay đổi quyết định cho phù hợp với thực tế kinh doanh của họ, nhưng cũng chính sự linh hoạt này tạo cơ hội cho người quản lý tham gia quản trị lợi nhuận (Healy và Wahlen, 1999; Dechow và Skinner, 2000). Nhiều nghiên cứu đã công bố cho thấy người quản lý quản trị lợi nhuận (QTLN) xuất phát từ những mục đích,2 những động cơ đã định trước như: vì lợi ích cá nhân của người quản lý, để tránh vi phạm các thỏa thuận trên các hợp đồng, để đạt lợi ích từ thị trường vốn (đạt được lợi nhuận mục tiêu, để phát hành cổ phiếu với giá cao, để được lợi khi sáp nhập, chia tách hay mua bán doanh nghiệp), hoặc phản ứng lại với các chính sách của Nhà Nước như giảm số thuế TNDN, để được ưu đãi đầu tư, ưu đãi về thuế, . Bên cạnh đó, người quản lý có thể QTLN bằng cách cắt giảm chi phí nghiên cứu và phát triển, chi phí quảng cáo, chi phí đào tạo, tăng thời gian bán chịu cho khách hàng, giảm giá bán niêm yết nếu mua hàng với số lượng lớn, QTLN có liên quan chặt chẽ đến chất lượng thông tin của BCTC của các công ty và là chủ đề thường xuyên được quan tâm trong nghiên cứu lĩnh vực kế toán (Collins, Pincus và Xie, 1999; Barth, Landsman và Lang, 2008)