Tiểu luận Vấn đề đạo đức và văn hóa nghề nghiệp của luật sư Việt Nam: Thực trạng và phương hướng hoàn thiện

  • Người chia sẻ :
  • Số trang : 11 trang
  • Lượt xem : 6
  • Lượt tải : 500
  • Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại

NHẬP MÃ XÁC NHẬN ĐỂ TẢI LUẬN VĂN NÀY

Nếu bạn thấy thông báo hết nhiệm vụ vui lòng tải lại trang

Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Vấn đề đạo đức và văn hóa nghề nghiệp của luật sư Việt Nam: Thực trạng và phương hướng hoàn thiện, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên

Đạo đức là hình thái đặc biệt về nhận thức của con người về các phạm trù như: chính – tà, thiện – ác, tốt – xấu, phải – trái, cao thượng – hèn hạ trong ứng xử của mình và là một trong những phương thức chủ yếu để điều chỉnh hành vi của con người trong xã hội với sự trợ giúp của hệ thống các quy phạm – chuẩn mực. Đạo đức nghề nghiệp của Luật sư bao gồm những quy định chung về đạo đức của bản thân Luật sư trong các mối quan hệ với khách hàng, cơ quan nhà nước, và đồng nghiệp của Luật sư. Dù làm bất cứ nghề nghiệp gì, ai trong số những con người trong xã hội cũng nên giữ cho mình cái tâm trong sáng, gìn giữ phẩm hạnh của mình, đó chính là đạo đức. Cùng với quy định về Nhận thức được sự cần thiết phải chuẩn hóa về mặt đạo đức của Luật sư, ngày 5 tháng 8 năm 2002 Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ban hành Quyết định số 356/2002/QĐ-BTP cho ra đời bản Quy tắc mẫu về đạo đức nghề nghiệp luật sư, được thông qua ngày 29 tháng 5 năm 2004 tại Hội Nghị đoàn Luật sư Thành phố Hà Nội. Là luật sư cần phải tuân theo những quy tắc về đạo đức nghề nghiệp của người Luật sư: – Mỗi Luật sư phải ý thức được sứ mệnh của mình, biết giữ gìn phẩm giá và danh dự nghề nghiệp. Tạo niềm tin và sự kính trọng trước tiên từ khách hàng, từ đó tôn vinh nghề Luật sư. – Trước khi là một Luật sư thì chính bản thân con người đó phải rèn luyện cho bản thân đức tính độc lập, trung thực, khách quan, nhiệt tình trong công việc. Không ngại khó, ngại khổ, không dồn trách nhiệm cho đồng nghiệp, cho người khác