Tiểu luận Tập hợp của mỹ và liên xô trong chiến tranh lạnh 1945 – 1991

  • Người chia sẻ :
  • Số trang : 25 trang
  • Lượt xem : 8
  • Lượt tải : 500
  • Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại

NHẬP MÃ XÁC NHẬN ĐỂ TẢI LUẬN VĂN NÀY

Nếu bạn thấy thông báo hết nhiệm vụ vui lòng tải lại trang

Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Tập hợp của mỹ và liên xô trong chiến tranh lạnh 1945 – 1991, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên

Trên một mức độ rất lớn, hành vi đối ngoại của một quốc gia bị chi phối bởi môi trường quốc tế, nhưng môi trường quốc tế lại không phải là nhân tố duy nhất ảnh hưởng đến hành vi đối ngoại của một nước. Từ góc độ lý luận, môi trường quốc tế của thời kỳ đầu chiến tranh lạnh chỉ tạo điều kiện cho xung đột và đối kháng giữa hai cường quốc, biến chiến tranh lạnh thành khả năng chiến tranh nóng. Nhưng sự thực, hai nước Xô – Mỹ lại không lựa chọn phương thức hợp tác mà từng bước đi đến Chiến tranh lạnh. Đó là vì sự đối lập căn bản về ý thức hệ, sự khác biệt căn bản về lợi ích quốc gia của hai nước. Hay nói cách khác, động cơ hành vi của hai nước về cơ bản là triệt tiêu lẫn nhau. Sự đối lập đó đã có những biểu hiện rõ ràng trong thời kỳ “nghẹt thở” này. Liên Xô và Mỹ, một là nước Xã hội chủ nghĩa lớn nhất, một là nước Tư bản chủ nghĩa lớn nhất. Chịu sự chi phối của tín ngưỡng ý thức hệ, hai nước dựa vào tiến triển của Chiến tranh thế giới thứ 2 và cục diện sau chiến tranh để ra sức mở rộng phạm vi ảnh hưởng tín ngưỡng ý thức hệ của bản thân, Liên Xô kiên trì theo đuổi học thuyết Vùng Đất Trung Tâm (Heartland) còn Mỹ thì ngược lại với học thuyết Vùng Đất Rìa (Rimland), để ra sức mở rộng phạm vi ảnh hưởng tín ngưỡng ý thức hệ của bản thân, ở những khu vực mà khả năng cho phép đều xây dựng và duy trì chế độ giống như mình. Là một quốc gia tôn thờ Chủ nghĩa cộng sản, Liên Xô trong chính sách đối ngoại của mình cũng thể hiện rõ nét những tư duy về mặt ý thức hệ. Bắt đầu từ khoảng năm 1944, Hồng quân Liên Xô đã tiến hành phản công trên quy mô lớn, thu lại được những lãnh thổ đã bị mất trong trong thời kỳ đầu chiến tranh, và tiến mạnh ra ngoài biên giới. Trong quá trình phát triển ra bên ngoài của Hồng quân Liên Xô đã giúp đỡ những đảng cộng sản ở những nơi đó thành lập chính quyền ủng hộ lực lượng tiến bộ. Giống như Stalin nói với đoàn đại biểu của Đảng Cộng sản Nam Tư vào tháng 4-1945: “Chiến tranh lần này và trước kia là khác nhau: bất luận ai chiếm lĩnh đất đai thì đều áp đặt chế độ của mình ở đó. Không thể khác được”. Thời kỳ sau chiến tranh và thời kỳ đầu sau chiến tranh, Hồng quân Liên Xô đã giúp đỡ các nước Đông Âu như: Ba Lan, Tiệp Khắc, Rumani xây dựng chính quyề dân chủ nhân dân, Đảng Cộng sản Nam Tư và Anbania trong quá trình lập chính quyền cũng được Liên Xô giúp đỡ. Đương nhiên sự giúp đỡ to lớn của Liên Xô đối với các nước Đông Âu, trên một mức độ rất lớn là tính đến lợi ích dân tộc của bản thân, nhưng không thể loại trừ trong đó có động cơ của chủ nghĩa quốc tế giai cấp vô sản. Sự ra đời của nước Cộng hoà dân chủ Nhân dân Triều Tiên, trên một mức độ rất lớn, đó chính là kết quả của sự mở rộng đến bán đảo Triều Tiên của Hồng quân Liên Xô. Stalin trong thời chiến đã từng có quan hệ trao đổi với Mỹ, coi Trung Quốc nằm trong phạm vi ảnh hưởng của Mỹ, hơn nữa còn nghi ngờ và không tin tưởng những người của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Nhưng cùng với sự p hát triển của tình hình Trung Quốc, thì Liên Xô lại dành một số sự giúp đỡ cho Đảng Cộng sản Trung Quốc, như sau khi Hồng quân Liên Xô chiếm được vùng Đông Bắc Trung Quốc, trên một mức độ nhất định đã ủng hộ Đảng Cộng sản ở Đông Bắc, và giao cho quân đội của Đảng Cộng sản Trung Quốc một số lượng lớn trang bị vũ khí, khiến cho quân đội của Đảng Cộng sản Trung Quốc ở vùng Đông Bắc trở thành một đội quân có 2 trang bị tốt nhất trong các khu giải phóng cả nước . Đối với các Đảng Cộng sản Tây Âu, Liên Xô lại không giành sự trợ giúp nào.