Thực trạng, nguyên nhân và cách thức giải quyết việc ly hôn có yếu tố nước ngoài
- Người chia sẻ :
- Số trang : 11 trang
- Lượt xem : 7
- Lượt tải : 500
- Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thực trạng, nguyên nhân và cách thức giải quyết việc ly hôn có yếu tố nước ngoài, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên
Trong những năm vừa qua, thực hiện đường lối đổi mới, tích cực hội nhập kinh tế, mở rộng giao lưu trên phạm vi quốc tế, Việt Nam đã đạt được rất nhiều thành tựu to lớn và quan trọng trong mọi mặt của đời sống xã hội. Rất nhiều công dân Việt Nam đã có điều kiện ra nước ngoài giao lưu, học tập, trao đổi kinh nghiệm. Giao lưu kinh tế giữa các doanh nghiệp Việt Nam và doanh nghiệp nước ngoài không ngừng phát triển. Qua đó, các mối quan hệ trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, từ dân sự, hôn nhân – gia đình đến kinh tế, thương mại, lao động ngày càng đa dạng và phát triển, góp phần tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc. Nhiều người Việt Nam đã kết hôn với người nước ngoài tạo thành những gia đình đa quốc tịch, đa văn hóa, trở thành cầu nối giữa văn hóa Việt Nam và các nước trên thế giới. Nhiều người nước ngoài thuộc đủ các quốc tịch khác nhau trên thế giới cũng đến Việt Nam và kết hôn với công dân Việt Nam, hay xin con nuôi, một việc làm góp phần mang lại mái ấm gia đình cho nhiều trẻ em bị mồ côi, bỏ rơi, có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn do hậu quả chiến tranh để lại. Pháp luật Việt Nam, với nguyên tắc nhân đạo, thể hiện ở chỗ tất cả hệ thống pháp luật phải thấm nhuần sự quan tâm đối với con người, đã sớm đặt ra những quy định về hôn nhân và gia đình nhằm tạo ra một cơ sở pháp lý để cho việc kết hôn với người nước ngoài. Cụ thể trong luật hôn nhân và gia đình năm 1959 có quy định “Con trai và con gái đến tuổi, được hoàn toàn tự nguyện quyết định việc kết hôn của mình; không bên nào được ép buộc bên nào, không một ai được cưỡng ép hoặc cản trở” (Điều 4), (mặc dù không có quy định kết hôn với người nước ngoài nhưng cũng không cấm việc này); hay luật hôn nhân và gia đình năm 1986, đã cụ thể hoá vấn đề kết hôn với người nước ngoài từ Điều 52 đến Điều 54 thuộc chương 9 của bộ luật này. Cho đến nay, luật hôn nhân và gia đình năm 2000 đã có những quy định rất cụ thể và chi tiết về vấn đề kết hôn có yếu tố nước ngoài. Cụ thể là ở các điều 7 (Áp dụng pháp luật về hôn nhân và gia đình đối với quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài), Khoản 14 Điều 8 (giải thích từ ngữ), các điều từ Điều 100 đến Điều 106 thuộc chương 11 của luật này. Như vậy có thể thấy pháp luật đã có những quy định rất cụ thể về vấn đề này, để có thể tạo một cơ sở cho việc kết hôn với người nước ngoài một cách dễ dàng và thuận tiện nhất. Tuy nhiên thời gian gần đây, có một thực tế đáng buồn và đáng báo động, đó là hiện tượng lợi dụng việc kết hôn với người nước ngoài để hướng đến các quan hệ lợi ích. Cụ thể đó là việc một bộ phận không nhỏ phụ nữ Việt Nam có xu hướng lấy chồng nước ngoài, tất nhiên nếu những cuộc hôn nhân này là kết quả của tình yêu nam nữ thì không có gì để nói, nhưng có những người phụ nữ hướng đến mục tiêu kinh tế, với suy nghĩ rất nông cạn là “ở nước ngoài, dù gì cũng đỡ khổ, cũng tốt hơn ở quê”. Đậy là suy nghĩ rất phổ biến của các cô gái vùng thôn quê, có trình độ văn hoá thấp, hoàn cảnh gia đình khó khăn, muốn lấy chồng nước ngoài mong cải thiện cuộc sống. Tất nhiên, những cuộc hôn nhân này, những cuộc hôn nhân vì tiền chứ không có tình yêu, không xuất phát từ tình yêu chân chính thì sớm muộn gì cũng sẽ đổ vỡ. Điều đó góp phần dẫn đến một thực trạng là các vụ ly hôn giữa người Việt Nam với người nước ngoài có xu hướng gia tăng. Vì vậy, một vấn đề cấp thiết được đặt ra là, cần phải nghiên cứu để tìm ra, ngoài nguyên nhân như đã nói, thì còn những nguyên nhân nào nữa dẫn đến tình trạng nêu trên. Từ đó sẽ tìm ra được cách giải quyết một cách hợp tình, hợp lý, bảo đảm được quyền và lợi ích của các bên. Đó cũng chính là cái mà Luật hôn nhân và gia đình nói riêng, pháp luật Việt Nam nói chung hướng đến.