Tăng cường hiệu quả phối hợp giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khoá ở Việt Nam
- Người chia sẻ :
- Số trang : 12 trang
- Lượt xem : 9
- Lượt tải : 500
- Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tăng cường hiệu quả phối hợp giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khoá ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên
Chính sách tiền tệ (CSTT) là tổng thể các quan điểm vận dụng nguyên lý cung ứng tiền thông qua sử dụng các công cụ điều tiết của Ngân hàng Trung ương (NHTW) nhằm giữ ổn định giá trị đồng nội tệ. Chính sách tài khoá (CSTK) là tổng hợp các quan điểm, cơ chế và phương thức huy động các nguồn hình thành NSNN, các quĩ tài chính có tính chất tập trung của Nhà nước và việc sử dụng chúng để đáp ứng 4 mục chi lớn theo kế hoạch từng năm tài chính, gồm: Chi thường xuyên, chi đầu tư xây dựng công trình công cộng, bổ sung quĩ dự trữ quốc gia và trả phần nợ đến hạn trong năm của Chính phủ đối với các chủ nợ ở trong và ngoài nước. Tiền của NHTW đi vào lưu thông qua nhiều kênh, trong đó có 2 kênh đáng lưu ý nhất là: Ngân sách và hệ thống Ngân hàng. Do vậy, đẻ đảm bảo tính bền vững của tăng trưởng kinh tế, nhiều tác giả khẳng định: việc thu, chi Ngân sách và tín dụng Nhà nước phải gắn chặt với nguyên tắc giữ ổn định tiền tệ. NHTW chỉ thực hiện được sự ổn định giá trị tiền tệ khi CSTK của Chính phủ theo đuổi mục tiêu CSTT lành mạnh.Một trong những cách thức bù đắp thâm hụt Ngân sách là Chính phủ có thể vay NHTW, đây là hình thức tài trợ tiền tệ cần hết sức thận trọng – NHTW chỉ có thể cho vay ngắn hạn và có bảo đảm. Khi Chính phủ vay NHTW thì tổng lượng tiền sẽ tăng và điều này khó khăn cho mục tiêu ổn định tiền tệ của CSTT. Ngoài ra Chính phủ có thể vay từ công chúng, từ các TCDT hoặc từ các tổ chức khác bằng việc phát hành các chứng khoán nợ (như tín phiếu, trái phiếu, công trái.). Trường hợp này làm tăng cầu tín dụng, tác động đến lãi suất thị trường tín dụng và ảnh hưởng đến đầu tư của tư nhân. Việc bù đắp thâm hụt Ngân sách bằng vay nợ nước ngoài đi đôi với Ngân sách không bền vững cũng làm tăng độ rủi ro quốc gia, khi đó Chính phủ buộc phải tăng cường thúc đẩy xuất khẩu hoặc sử dụng dự trữ quốc tế, ảnh hưởng đến cân đối tiền – hàng trong nước, hơn nữa mức lãi suất nợ nước ngoài (thường theo lãi suất LIBOR + “phí giao dịch các loại” + “chênh lệch bán lại” cho nhà đầu tư trong nước!) hay biến động làm giá trị thực của nợ nước ngoài cũng biến động theo gây mất ổn định tiền tệ.
