PHẢN ỨNG CẮT MẠCH POLYETYLENTEREPHTALAT (PET) TỪ VỎ CHAI BẰNG DIETYLEN GLYCOL (DEG)

  • Người chia sẻ :
  • Số trang : 8 trang
  • Lượt xem : 6
  • Lượt tải : 500
  • Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại

NHẬP MÃ XÁC NHẬN ĐỂ TẢI LUẬN VĂN NÀY

Nếu bạn thấy thông báo hết nhiệm vụ vui lòng tải lại trang

Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu PHẢN ỨNG CẮT MẠCH POLYETYLENTEREPHTALAT (PET) TỪ VỎ CHAI BẰNG DIETYLEN GLYCOL (DEG), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên

Nhựa polyetylenterephtalat (PET) là một polyme kỹthuật có độbền căng và bền va đập, độkháng hóa chất, độtrong và khảnăng gia công rất tốt. Do đó PET ngày càng được sửdụng phổbiến làm chai lọchứa chất lỏng nhưnước tinh khiết, nước có ga, nước ngọt, nước tương Với lượng vỏchai PET ngày càng tăng, vấn đềtái sửdụng hay tái chếvỏchai trởnên quan trọng nhằm tránh tác hại đến môi trường. PET được coi là loại nhựa không bịgiảm cấp trong điều kiện tựnhiên và cho tới nay chưa có công bốnào vềvi sinh có thểtiêu thụ được PET. Có hai phương pháp tái chếPET chính là phương pháp vật lý và phương pháp hóa học [1]. Với phương pháp vật lý, chai sau khi sửdụng xong, thu gom, rửa sạch, băm nhỏsấy khô và tái gia công. Tuy nhiên nhược điểm chính của phương pháp này là chai PET sau khi sửdụng và xửlý thường bịgiảm cấp do phản ứng thuỷphân nên có độnhớt (hoặc phân tửlượng) không thoảmãn đểtái chế đểlàm lại chai mới (độnhớt đặc trưng cần lớn hơn 0,7 dL/g). Để đạt được độnhớt thích hợp cho tái chế, cần phải sấy nhựa tái chếthật khô (độ ẩm tối đa 0,02%) và phải thêm phụgia nhằm tăng phân tửlượng. Điều này khó thực hiện ởViệt Nam do có độ ẩm cao và tốn nhiều năng lượng cho việc sấy nên làm tăng chi phí tái chế. Phương pháp hóa học là thực hiện phản ứng khửtrùng hợp bằng phản ứng với nước, metanol, hay etylen glycol nhằm thu được monome hay oligome [2] và sau đó cho oligome phản ứng với anhydric maleic tạo thành polyeste bất bão hòa [3] hoặc cho phản ứng diisocyanat nhằm tạo thành nhựa polyuretan [4] hoặc tạo thành diacrylat/dimetacrylat dùng trong phản ứng khâu mạng quang hóa. Đây là các phương pháp tái chếphếthải nhằm tạo ra các sản phẩm có giá trịcao hơn. Theo Rossi [5] phản ứng glycol giải thường thực hiện ởkhoảng nhiệt độ180 – 250°C, trong 0,5 – 8 giờvà thường dùng xúc tác kẽm axetat với hàm lượng 0,5% khối lượng PET tái chế. Phụthuộc vào loại glycol, phản ứng có thểthực hiện ởáp suất khí quyển hoặc áp suất cao. Halacheva và Novakov [6] tiến hành phản ứng giữa PET với DEG (xúc tác mangan axetat) và nghiên cứu ảnh hưởng của hàm lượng DEG lên cấu trúc của oligoeste thu được. Từcác kết quảthực nghiệm sau khi phân tích bằng các phương pháp NMR, GPC và phương pháp định phân nhóm chức hydroxyl, axit carboxylic , họ đã đềnghịcơchếcho phản ứng glycol giải với lượng thừa DEG.