Phân tích swot Tập đoàn Bảo hiểm Việt Nam
- Người chia sẻ :
- Số trang : 4 trang
- Lượt xem : 2
- Lượt tải : 500
- Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Phân tích swot Tập đoàn Bảo hiểm Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên
Tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam (Bảo Việt) đã dời ngày dự kiến phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng (IPO) từ 17-5 sang 31-5-2007. Ngày 31-5 cũng là thời hạn cuối cùng Chính phủ yêu cầu Bảo Việt IPO. Một trong những nguyên nhân trì hoãn ngày phát hành cổ phiếu là Bảo Việt, cơ quan chủ quản (Bộ Tài chính) và đơn vị tư vấn Crédit Suisse (Thụy Sỹ) đang cân nhắc giá khởi điểm đấu giá. Tỷ suất lợi nhuận ròng trên vốn dưới 5% Thống lĩnh là từ thường được dùng để miêu tả vị trí của Bảo Việt trên thị trường bảo hiểm hiện nay. Suốt nhiều năm kể từ khi Nhà nước xóa độc quyền bảo hiểm (1993), Bảo Việt vẫn giữ vị trí hàng đầu về bảo hiểm phi nhân thọ với thị phần 38,7% (số liệu 2005) và thứ hai về bảo hiểm nhân thọ (sau Prudential năm 2006, thị phần 36,5% so với 41,6% của Prudential – chỉ tính phí bảo hiểm). Hiện tại tổng công ty có 80 sản phẩm bảo hiểm phi nhân thọ và 40 sản phẩm nhân thọ với hệ thống mạng lưới 126 chi nhánh và 400 phòng giao dịch. Bảo Việt đang quản lý 48.000 đại lý và hơn 20 triệu hợp đồng bảo hiểm phi nhân thọ, 3,2 triệu hợp đồng bảo hiểm nhân thọ còn hiệu lực. Đó là con số mà nhiều doanh nghiệp bảo hiểm khác, kể cả những công ty 100% vốn nước ngoài, mơ ước. Tuy nhiên Bảo Việt đang phải đối đầu với cuộc cạnh tranh ngày một khốc liệt trong lĩnh vực bảo hiểm. Để giành giật khách hàng, các công ty bảo hiểm đã không ngừng tăng phí hoa hồng cho đại lý, cho người môi giới, giảm phí bảo hiểm đến mức thấp nhất có thể. Bảo Việt càng khó khăn hơn khi là một doanh nghiệp nhà nước, phải tuân thủ cơ chế quốc doanh, không thể phá rào tăng mạnh mức hoa hồng như một số đơn vị cùng ngành. Mặt khác, thị trường bảo hiểm Việt Nam còn nhiều tiềm năng , nhưng do cạnh tranh thiếu lành mạnh đã phát triển không đồng đều và hạn chế đáng kể hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp. Mặc dù vẫn giữ được tốc độ tăng trưởng về doanh thu, nhưng lợi nhuận sau thuế của Bảo Việt (và của cả ngành bảo hiểm nói chung) không thật sự ấn tượng so với các mảng dịch vụ tài chính khác như ngân hàng, chứng khoán. Năm 2006 với số vốn điều lệ được xác định là 6.800 tỉ đồng khi cổ phần hóa, lợi nhuận sau thuế (chưa kiểm toán) đạt 318 tỉ đồng, tỷ suất lợi nhuận ròng trên vốn của Bảo Việt dưới 5%. Cũng cần phải nói thêm là Bảo Việt và các công ty bảo hiểm nội địa khác vẫn đang được Nhà nước bảo hộ khá mạnh. Những nghiệp vụ bảo hiểm bắt buộc được đánh giá là màu mỡ như bảo hiểm cháy nổ, bảo hiểm xe cơ giới. vẫn chỉ có các doanh nghiệp nội địa được phép khai thác. Hơn nữa, ngay cả những nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ bình thường khác, các doanh nghiệp bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài chỉ được tiếp xúc với khách hàng là công ty có vốn đầu tư nước ngoài, công ty tư nhân. Doanh nghiệp nhà nước là khách hàng bị loại trừ đối với họ. Song sự bảo hộ này không thể kéo dài mãi khi Việt Nam đã là thành viên WTO.