Luận văn Sự ảnh hưởng của hương ước đối với pháp luật phong kiến Việt Nam
- Người chia sẻ : vtlong
- Số trang : 64 trang
- Lượt xem : 5
- Lượt tải : 500
- Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Sự ảnh hưởng của hương ước đối với pháp luật phong kiến Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên
Hương ước là một nét văn hoá, là một hiện tượng pháp luật phổ biến trong xã hội phong kiến Việt Nam. Hương ước xuất hiện từ thế kỷ XV và tồn tại dai dẳng trong suốt thời gian dài đến tháng 8/1945. Sau một thời gian gián đoạn, năm 1989, hương ước lại xuất hiện. Sự xuất hiện lại của hương ước là một vấn đề lý thú mà giới “Dân tộc học”, “pháp luật”. nghiên cứu.
Nghiên cứu hương ước có nhiều ý nghĩa.
Thứ nhất, nó giúp phần tìm hiểu làng xã người Việt ở Đồng bằng Trung du Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ. Hầu hết các làng Việt ở đây, trước Cách mạng tháng 8 đều có hương ước. Hương ước bao gồm các quy ước về nhiều mặt về đời sống của làng xã. Nó phản ánh quá trình hình thành, phát triển của làng xã người Việt. Trong các nguồn tài liệu thành văn về xã hội làng Việt cổ truyền, hương ước là nguồn tài liệu quan trọng để tìm hiểu làng Việt xưa. Hương ước thể hiện một cách chân phương bộ mặt xã hội cổ truyền của dân tộc; đồng thời nó là tư liệu gốc để nhận biết bức tranh văn hoá tổng hợp của làng văn hoá người Việt. Nhất là ngày nay, khi tầng lớp người hiểu biết về làng Việt trước Cách mạng tháng 8 đang ngày một cạn dần, thì hương ước mãi là một nguồn tư liệu quan trọng.
Thứ hai, nghiên cứu hương ước góp phần tìm hiểu văn hoá của tộc người Việt. Như vậy, vô hình chung, hương ước phản ánh rõ nét văn hoá dân tộc Việt. Để phát triển nền văn hoá Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc, kết hợp giữa giá trị truyền thống và giá trị hiện đại, để phục vụ cho việc phát triển đất nước hiện nay thì việc nghiên cứu và xử lý văn hoá làng là rất quan trọng. Do đó, hương ước có giá trị như một tư liệu gốc.
Thứ ba, nghiên cứu hương ước, góp phần tìm hiểu lịch sử phong kiến Việt Nam qua các triều đại. Làng Việt là một đơn vị tụ cư, nó được hình thành rất sớm. Sau này đến thế kỷ VII (năm 622) cấp xã được thành lập. Trong chế độ lịch sử Phong kiến Việt Nam, làng xã luôn là nỗi trăn trở của triều đại. Hầu như các bước phát triển thăng trầm của Nhà nước Phong kiến đều được phản ánh rất nhiều trong hương ước. Mặt khác, hương ước ra đời do nhu cầu phát triển nội tại của các cộng đồng cư dân. Lúc đầu, Nhà nước Phong kiến nghi ngờ. Sau đó, Nhà nước Phong kiến lợi dụng hương ước bằng cách lồng tư tưởng Nho giáo vào trong cộng đồng làng xã. Vì vậy nghiên cứu hương ước giúp cho chúng ta hiểu được “nắm làng”, “quản lý làng xã” của Nhà nước Phong kiến.
Thứ tư, nghiên cứu hương ước còn góp phần chỉ ra những mặt hợp lý, tích cực của hương ước (đứng từ góc độ pháp luật) trong việc quản lý xã hội ở nông thôn, đồng thời còn chỉ ra được những mặt hạn chế, tiêu cực của hương ước trong việc quản lý xã hội ở nông thôn hiện nay, nhất là việc xây dựng ý thức pháp luật cho người nông dân và đặc biệt là xem xét, kết hợp giữa “luật” và “tục” trong xã hội nông thôn ngày nay.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.
Khi xem xét lịch sử nghiên cứu vấn đề, chúng ta cần phải đặt hương ước trong mối quan hệ với tổ chức làng xã người Việt; hương ước trong mối quan hệ với phong tục người Việt; hương ước trong quan hệ giữa Nhà nước và pháp luật.
Ba vấn đề này, từ lâu đã được các nhà nghiên cứu khoa học trong và ngoài nước quan tâm. Các tác giả người Pháp, có lẽ là những người nghiên cứu về làng Việt tương đối nhiều. Nhưng khi nghiên cứu về làng Việt, họ chủ yếu đề cập đến phong tục, lệ tục của làng Việt cổ đại.
Người đặt viên gạch đầu tiên là Phan Kế Bính, với tác phẩm: “Việt Nam phong tục”. Trong tác phẩm này, Phan Kế Bính có dẫn một bản hương ước của làng Đề Kiều, xã Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh về vấn đề “nghĩa thương”. Tiếp đó, Ngô Tất Tố có hai thiên phóng sự: “Tập án cái đình” và “việc làng”. Quảng Ninh và Vân Đình đã tố cáo chế độ cường hào, thực dân, qua các bản hương ước trong tác phẩm vấn đề dân cày; Vũ Văn Khiếu với “Đất lề quê thói”.
Sau Cách mạng tháng 8, Nguyễn Hồng Phong có viết: “Xã thôn Việt Nam”. Đây là một tác phẩm đầu tiên, giới thiệu hoàn vị về làng xã người Việt. Có thể nói người khám phá vai trò của hương ước một cách gợi mở nhất là Từ Chi (Trần Từ) trong tác phẩm “cơ cấu tổ chức làng Việt cổ truyền ở Bắc Bộ”. Tinh thần chủ yếu của tác phẩm này là nhìn hương ước như một cương lĩnh điều hoà các quan hệ xã hội trong làng Việt.
Sau đó hàng loạt những bài viết, những cuốn sách viết về hương ước như: Bùi Xuân Bính và Vũ Duy Mền trong bài: “hương ước – khoán ước trong làng xã người Việt” đăng trên tạp chí Nghiên cứu lịch sử số 3/1982. Năm 1984 Bùi Xuân Bính lại viết: “lệ làng phép nước”. Trong thời kỳ này có lẽ đây là cuốn sách đầu tiên, bước đầu đã giới thiệu một cách tương đối có hệ thống. Từ nguồn gốc, điều kiện xuất hiện hương ước, nội dung cơ bản của hương ước, mối quan hệ giữa hương ước và pháp luật nhà nước phong kiến, tác động tích cực, tiêu cực, đặt hương ước trong di sản của thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Với Nghị quyết 10 của Bộ chính trị BCH Trung ương Đảng khoá VI năm 1986 (ban hành tháng 4/1988) về việc giao quyền sử dụng đất ổn định lâu dài cho nhân dân, hộ gia đình, vị trí của làng xã đã được đề cao. Từ đó, nó phát sinh ra nhu cầu lật lại hương ước. Ban đầu nhu cầu này trỗi dậy mạnh mẽ ở tỉnh Hà Bắc.Cũng từ đó mà nó đẩy mạnh sự tìm tòi, nghiên cứu hương ước. Hàng loạt các tác phẩm nghiên cứu hương ước cũ đề ra hướng đi cho “hương ước mới” (ví dụ: xây dựng qui ước làng văn hoá mới ở Hà Bắc – do Sở văn hoá, thông tin tỉnh Hà Bắc xuất bản năm 1993). Rồi hàng loạt những bài trên tạp chí cùng với những cuốn sách, luận án về hương ước như: “hương ước lệ làng” của Lê Đức Tiếp – NXB chính trị quốc gia 1998, luận án Phó tiến sĩ khoa học lịch sử mã số 50310: Một số hương ước làng Việt ở đồng bằng Bắc Bộ của Bùi Xuân Đính. Ở các tỉnh cũng “nở rộ” trong việc sưu tập hương ước như: Hà Tây, Hà Tĩnh, Thanh Hóa, Nghệ An, Thái Bình, Hà Bắc, Hải Dương. nhất là năm 1999, đã có cuộc hội thảo quốc tế về luật tụng và sự phát triển của nó ở nông thôn Việt Nam hiện nay. Tinh thần của hội thảo này đã được phản ánh rất rõ trong cuốn: “Luật tục và sự phát triển của nó trong xã hội nông thôn Việt Nam ngày nay” (NXB chính trị Quốc gia năm 2000).
Nếu cắt ngang những công trình đã được nghiên cứu về hương ước, chúng ta có thể chia làm 4 nhóm như sau:
+ Nghiên cứu hương ước trong mối quan hệ với Phong tục và tổ chức làng xã: Phan Kế Bính, Ngô Tất Tố, Trần Từ, Vũ Văn Khiếu, Phan Đại Doãn.
+ Các tác giả nghiên cứu hương ước làm đối tượng chính như Bùi Xuân Đính, và người đi đầu là Vũ Duy Mền.
+ Các tác giả sưu tầm và giới thiệu hương ước các tỉnh: Như hương ước tỉnh Hà Tây, Nghệ An, Hà Tĩnh, Hà Bắc, Hải Dương.
+ Các tác giả nghiên cứu hương ước trong mối quan hệ với pháp luật: Đào Trí Úc, Nguyễn Đăng Dung, Hoàng Kim Quế, Lê Hồng Sơn, Hoàng Đình Thắng.
Như vậy, thành quả nghiên cứu về hương ước là rất lớn, nhất là từ thập kỷ 90 trở lại đây. Tuy nhiên nó còn mang nặng tính phong trào và họ trú trọng nhiều về phương diện “dân tộc học” nếu đứng từ góc độ pháp lý để nhìn nhận thì các nhà khoa học pháp lý đã bàn đến hương ước nhưng phần lớn là so sánh mối quan hệ giữa hương ước và pháp luật. Vấn đề “ảnh hưởng của hương ước đối với pháp luật Phong kiến Việt Nam” còn tương đối mờ nhạt.
Do đó việc nghiên cứu sự ảnh hưởng của hương ước đối với pháp luật Phong kiến Việt Nam, nhất là trong giai đoạn hiện nay chúng ta đang hoàn thiện pháp luật, sự xuất hiện “tái lập hương ước” là vấn đề rất cần thiết. Vì vậy, tôi chọn đề tài này làm luận văn tốt nghiệp Đại học Luật của mình.
3. Mục đích đối tượng phạm vi nghiên cứu đề tài.
3.1. Mục đích: Luận văn tập trung vào tìm hiểu sự ảnh hưởng của hương ước đối với pháp luật Phong kiến Việt Nam; ảnh hưởng đến làng xã và người nông dân Việt. Trên cơ sở đó luận văn đưa ra một số ý kiến về việc kế thừa phát huy những mặt tích cực khắc phục những mặt hạn chế của hương ước còn ảnh hưởng đến xã hội ta hiện nay. Nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý xã hội nông thôn, đồng thời nhằm tăng cường hiệu lực của pháp luật ở nông thôn trong điều kiện hiện nay.
3.2. Đối tượng: Luận văn nghiên cứu những yếu tố được phản ánh trong hương ước có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp với pháp luật.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Xét về bình diện không gian: Luận văn nghiên cứu hương ước ở làng xã châu thổ Bắc Bộ. Đây là các vùng được hình thành lâu đời và nó còn lưu giữ được nguồn tư liệu lớn hương ước.
Xét ở bình diện thời gian: Luận văn nghiên cứu hương ước trước Cách mạng tháng 8 năm 1945 đồng thời cũng có xem xét ở chừng mực nhất định để so sánh với thời điểm hiện nay.
4. Nguồn tư liệu
Luận văn chủ yếu sử dụng bản hương ước đã được công bố trên các sách, tạp chí từ trước tới nay, đồng thời luận văn có sự kế thừa những thành tựu nghiên cứu về hương ước của các tác giả đã đi trước.
5. Cơ sở lý luận và các phương pháp nghiên cứu.
Nghiên cứu đề tài này, luận văn đã vận dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin, các văn kiện của Đảng CSVN, các văn bản pháp luật hiện hành của Nhà nước.
Luận văn cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể, chủ yếu là để giải quyết những vấn đề đặt ra như phương pháp dân tộc học, phương pháp lịch sử, phương pháp thống kê.
6. Đóng góp của luận văn.
Đây là công trình đã hệ thống hoá được cơ bản các nguồn tài liệu, các quan điểm nghiên cứu có mối quan hệ đến giữa hương ước và pháp luật.
Bước đầu chỉ ra được những biểu hiện về ảnh hưởng của hương ước đối với pháp luật Nhà nước phong kiến.
Đồng thời luận văn cũng đưa ra được một số những ý kiến đóng góp trong quá trình xây dựng quy ước làng văn hoá hiện nay.
7. Bố cục của đề tài.
Phù hợp với mục đích nội dung và phạm vi nghiên cứu luận văn được chia làm 3 chương, lời nói đầu và kết luận.
