Luận văn Quán ngữ trong chức năng rào đón, đưa đẩy và khảo sát, phân tích quán ngữ rào đón, đưa đẩy trong truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan
- Người chia sẻ :
- Số trang : 89 trang
- Lượt xem : 8
- Lượt tải : 500
- Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Quán ngữ trong chức năng rào đón, đưa đẩy và khảo sát, phân tích quán ngữ rào đón, đưa đẩy trong truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên
1. Lý do chọn đề tài Từ vựng không phải là một tập hợp đơn giản, hỗn độn. Nó là một tổ chức lớn, rất phức tạp nhưng có quy tắc, trong đó từ là đơn vị cơ bản. Từ chứa đựng rất nhiều loại thông tin, những thông tin về tổ chức, về lịch sử, về hoạt động của ngôn ngữ. Tuy nhiên, sự phát triển của đời sống tư tưởng con người đã dẫn tới sự xuất hiện các từ mới và các đơn vị từ vựng tương đương với từ mà chúng ta gọi là ngữ. Theo Nguyễn Thiện Giáp “Một trong những thành tựu quan trọng nhất trong sự tiến hoá của loài người là sự mở rộng bất thường của thế giới khái niệm. Sự phát triển này có quan hệ chằng chéo phức tạp với sự tăng trưởng vũ bão về số lượng và sự đa dạng của tư tưởng mà con người có thể truyền đạt được. Bằng ngôn ngữ con người thông báo không chỉ cảm xúc, tri thức mà cả một số lượng vô hạn các trạng thái, quan hệ, đối tượng và sự kiện bên trong cũng như bên ngoài con người. Hệ thống các từ trong tiếng Việt không đủ để biểu thị một số luợng lớn như thế các khái niệm, hiện tượng khác nhau. Nhu cầu tất yếu là phải cấu tạo thêm những đơn vị từ vựng trên cơ sở những từ đã có. Những đơn vị như thế được gọi là ngữ, có giá trị tương đương như từ’’ (3a, tr.70) Ngữ (cụm từ ) là tổ hợp các từ nằm trong giới hạn một câu. Có cụm từ tự do và có cụm từ cố định. Cụm từ tự do được tạo ra một cách thức thời trong quá trình giao tiếp. Nó không có sẵn từ trước, đồng thời nó cũng tan rã đi sau khi hành động giao tiếp kết thúc. Quan hệ giữa các từ trong cụm từ tự do lỏng lẻo. Còn cụm từ cố định cũng được tạo nên bởi các từ nhưng đã cố định hoá. Những cụm từ cố định được hình thành trong lịch sử. Mỗi lần giao tiếp, chúng lại được tái hiện và được giữ nguyên cả khối hình thức âm thanh cũng như ý nghĩa giống như các âm vị, hình vị, các từ và được lĩnh hội như một đơn vị có sẵn từ trước với tính chỉnh thể về hình thức, âm thanh và ý nghĩa. Quán ngữ được nhiều nhà nghiên cứu coi là một loại cụm từ cố định bởi tính chất lặp lại của nó. Tuy nhiên xét về hình thức và về ý nghĩa, quán ngữ lại chẳng khác gì các cụm từ tự do nên có nhiều ý kiến cho rằng quán ngữ là bộ phận trung gian giữa cụm từ tự do và cụm từ cố định. Việc nghiên cứu xác định ranh giới của quán ngữ đã được nhiều người quan tâm bởi hiểu rõ và sử dụng đúng quán ngữ sẽ góp phần làm phong phú thêm vốn ngôn ngữ của người Việt đồng thời làm tăng khả năng tư duy, diễn đạt. Quán ngữ hình thành trong tiếng Việt với nhiều chức năng khác nhau, chúng không chỉ có vai trò quan trọng trong giao tiếp hàng ngày mà còn có ý nghĩa rất lớn trong sáng tác văn học. Chính vì thế, chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu: Quán ngữ trong chức năng rào đón, đưa đẩy và khảo sát, phân tích quán ngữ rào đón, đưa đẩy trong truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan nhằm góp phần làm rõ thêm vai trò của quán ngữ trong tiếng Việt hiện nay. ý nghĩa thực tiễn của đề tài là giúp cho người Việt giao tiếp với nhau lịch sự hơn và đạt được hiệu quả tối ưu trong giao tiếp. 2. Lịch sử vấn đề Quán ngữ là một vấn đề không mới lạ trong nghiên cứu tiếng Việt song với nhiều người thì đây là một khái niệm lạ, ít được biết đến. Qua việc tìm hiểu các đề tài nghiên cứu về quán ngữ từ trước đến nay, chúng tôi nhận thấy hầu hết các tác giả đều cho rằng quán ngữ mang tính cố định hoặc nửa cố định. Tác giả Nguyễn Văn Tu trong cuốn Từ vựng học tiếng Việt hiện đại gọi quán ngữ là những từ tổ cố định tổ hợp “ Trong tiếng Việt có một số từ rất gần với từ tổ tự do nhưng tương đối ổn định về kết cấu, được quen dùng mà các từ tạo ra chúng còn giữ tính chất độc lập, có khi một từ trong đó có thể thay thế bằng một từ khác. Nghĩa của từ tổ được thể hiện qua nghĩa đen hay nghĩa bóng của những từ thành tố của chúng. Sở dĩ có thể quy những từ tổ này vào từ tổ cố định vì so với các loại từ tổ tự do, quan hệ giữa các từ tương đối ổn định. Theo truyền thống những từ trong những từ tổ này gắn với nhau và được quen dùng’’ (9,tr. 143) Theo tác giả Nguyễn Văn Tu thì quán ngữ là bộ phận gần gũi với cụm từ tự do nhưng bởi có tính ổn định tương đối nên có thể xếp chúng vào loại từ tổ cố định. Tác giả cho rằng cụm từ “bạn nối khố’’ là một quán ngữ chỉ người bạn rất thân. Những từ “nối’’ “khố” kết hợp với ‘’bạn’’ được dùng qua nhiều thế hệ. Quan hệ giữa chúng khá chặt chẽ cho nên cả từ tổ trở thành như một đơn vị có sẵn trong ngôn ngữ. Nghĩa của từ ‘’nối’’’’khố’’ đã mất tính chất độc lập. Các danh từ như “cười nụ’’ “bạn cố tri’’ “anh hùng rơm’’ “kỉ luật sắt’’ cũng được tác giả coi là quán ngữ. Đồng thời các ngữ cố định như: lành như bụt, dốt đặc cán mai, giấu đầu hở đuôi, được voi đòi tiên” cũng được coi là quán ngữ. Sau này tác giả Nguyễn Thiện Giáp trong cuốn “Từ vựng học tiếng Việt ” (NXBGD – 1985) cũng coi quán ngữ là một bộ phận trung gian giữa cụm từ tự do, và các kiểu cụm từ cố định. Theo ông về hình thức cũng như về ý nghĩa, quán ngữ chẳng khác gì các cụm từ tự do. Nội dung của chúng đã trở thành điều thường xuyên phải cần đến trong suy nghĩ và diễn đạt. Chúng được dùng lặp đi lặp lại như một đơn vị có sẵn. Phạm vi bao quát của quán ngữ theo quan niệm của tác giả Nguyễn Thiện Giáp hẹp hơn quan niệm của tác giả Nguyễn Văn Tu ” Quán ngữ theo chúng tôi quan niệm là những cụm từ được dùng lặp đi lặp lại trong các loại văn bản để liên kết, đưa đẩy, rào đón hoặc nhấn mạnh nội dung cần diễn đạt nào đó. Mỗi phong cách thường có những quán ngữ riêng, chẳng hạn các quán ngữ : Của đáng tội, nói khí vô phép, nói bỏ ngoài tai, thường được dùng trong phong cách hội thoại, các quán ngữ: như đã nói, thiết nghĩ, có thể nghĩ rằng, nói cách khác, trước hết, một mặt thì, mặt khác thì, nghĩa là, đáng chú ý, thường được dùng trong phong cách sách vở” (3a, tr. 109) Quan niệm của tác giả Nguyễn Thiện Giáp đã giúp chúng ta phân định rạch ròi hơn ranh giới giữa thành ngữ và quán ngữ. Trong từ điển Giáo khoa tiếng Việt tiểu học, các tác giả đã đưa ra định nghĩa về quán ngữ như sau: ”Những cách nói tự do dùng nhiều, lặp đi lặp lại mà trở thành quen thuộc như các từ ngữ thông thường, ví dụ ”lên mặt” ”lên mặt dạy lời”, ” ra oai” Ngữ cố định được chia làm hai loại là quán ngữ và thành ngữ. Quán ngữ là những cách nói được dùng nhiều thành thói quen (quán = quen) do đó trở nên cố định”(10, tr.226). Các tác giả Đặng Thị Lanh, Bùi Minh Toán, Lê Hữu Tỉnh trong “tiếng Việt tập 1- Giáo trình chính thức đào tạo giáo viên tiểu học hệ CĐSP và SP12+2” đã đưa ra một quan niệm về quán ngữ gần với quan niệm của tác giả Nguyễn Thiện Giáp : “Quán ngữ là những cụm từ cố định có những đặc trưng rất gần với cụm từ tự do. Đó là những cách nói, cách diễn đạt nhằm mục đích đưa đẩy, chuyển ý hay dẫn ý để mở đề hoặc gây chú ý, tạo tình huống giao tiếp, không khí giao tiếp” (5, tr 197). Các tác giả cũng phân loại quán ngữ theo phong cách. Loại dùng trong khẩu ngữ như : của đáng tội, nói vô phép, nói trộm vía, và loại dùng trong khoa học: Nói tóm lại, nói cách khác. Thuộc phạm vi quán ngữ các tác giả còn kể đến những tổ hợp mà kết cấu tương đối ổn định nhưng nghĩa không hoặc ít tính chất mới, ít có tính thành ngữ, tính biểu trưng, nghĩa của cả tổ hợp gần giống tổng số nghĩa của các yếu tố cấu thành như: kéo bè kéo cánh, ăn ngon mặc đẹp, bữa rau bữa cháo, áo rách quần manh, mẹ goá con côi, ăn sung mặc sướng. Theo giáo sư Đỗ Hữu Châu thì quán ngữ là một bộ phận của ngữ cố định. Trong cuốn “Giáo trình Từ vựng học tiếng Việt” (NXBĐHSP-2004) tác giả đã viết: “Quán ngữ là các ngữ cố định phần lớn không có từ trung tâm, không có kết cấu. Chúng là những công thức nói lặp đi lặp lại với những từ ngữ tương đối cố định, không có tác dụng định danh cũng không có tác dụng sắc thái hoá sự vật, hoạt động, tính chất, trạng thái mà chủ yếu là để đưa đẩy, liên kết, để chuyển ý, để thể hiện các hành động nói khác nhau và nhất là đảm nhiệm chức năng rào đón. (2d, tr.80) Tác giả Đỗ Hữu Châu xếp tất cả các ngữ cố định có tác dụng gọi tên sự vật, hoạt động tính chất, trạng thái như chuột sa chĩnh gạo, chuột sa lọ mỡ hay các ngữ có tác dụng thể hiện các sắc thái khác nhau của một vật, một hoạt động., một tính chất một trạng thái như: mắt lươn, mắt phượng, dai như đỉa, chạy long tóc gáy vào một loại gọi là ngữ danh hay thành ngữ. Còn các quán ngữ chỉ bao gồm các ngữ đảm nhiệm chức năng ngoài nòng cốt câu như chức năng chuyển tiếp, chêm, xen kẽ. Nhìn chung quan niệm về quán ngữ của các tác giả từ trước đến nay đã khá đầy đủ, cụ thể. Tiếp thu những ý kiến của tác giả đi trước về vấn đề này chúng tôi tiến tới tìm hiểu chức năng của quán ngữ, cụ thể là chức năng đưa đẩy và rào đón. Đồng thời chúng tôi tiến hành khảo sát, phân tích vai trò của quán ngữ thực hiện chức năng đưa đẩy và rào đón trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan. 3. Giới hạn đề tài Về đối tượng nghiên cứu: Luận văn đi vào tìm hiểu quán ngữ trong chức năng đưa đẩy, rào đón nhằm giúp người đọc hình dung được một cách cụ thể về quán ngữ đồng thời sử dụng quán ngữ linh hoạt hơn. Về phạm vi nghiên cứu: Luận văn chủ yếu dừng lại khảo sát và phân tích quán ngữ đưa đẩy, rào đón được dùng trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan. 4. Phương pháp nghiên cứu 4.1. Thống kê Để có cơ sở làm việc, luận văn bắt buộc phải sử dụng phương pháp thống kê tập hợp các quán ngữ có trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan. Các dữ liệu thu thập được là cơ sở để tiến hành phân tích, tổng hợp. 4.2. Phân loại Từ những dữ liệu đã thu được bằng phương pháp thống kê, chúng tôi tiến hành thao tác tiếp theo là phân loại. Việc phân loại quán ngữ ra thành từng nhóm dựa trên tác dụng của chúng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc phân tích. 4.3. Phân tích Luận văn phải sử dụng phương pháp này để phân tích giá trị ngữ dụng của từng loại quán ngữ. Việc phân tích sẽ giúp chúng tôi có cơ sở để đánh giá vai trò của quán ngữ. 4.4 Đối chiếu Phương pháp này giúp chúng tôi xác nhận được tính đa chức năng, đa giá trị của quán ngữ. Bởi vì trong thực tế sử dụng một quán ngữ có thể mang các giá trị và thực hiện những chức năng khác nhau 4.5. Đánh giá tổng hợp Trên cơ sở những dữ liệu được phân tích chúng tôi tiến hành thao tác đánh giá tổng hợp để có được kết luận về vai trò của quán ngữ trong đời sống hàng ngày và trong sáng tác văn chương. 5. Cấu trúc luận văn Nội dung của luận văn sẽ được khai triển theo 2 chương như sau: Chương I: Một số điểm lý luận cơ sở I.1. Khái niệm quán ngữ I.2. Phân biệt quán ngữ với thành ngữ I.3. Chức năng của quán ngữ Chương II: Quán ngữ trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan II.1. Khảo sát, thống kê, phân loại quán ngữ thực hiện chức năng đưa đẩy và rào đón trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan II.2. Phân tích vai trò của một số quán ngữ đưa đẩy và rào đón trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan Kết luận