Luận văn Nghiên cứu phương pháp điều khiển tốc độquay của tuabin trong nhà máy thủy điện Hòa Bình

  • Người chia sẻ : vtlong
  • Số trang : 95 trang
  • Lượt xem : 9
  • Lượt tải : 500
  • Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại

NHẬP MÃ XÁC NHẬN ĐỂ TẢI LUẬN VĂN NÀY

Nếu bạn thấy thông báo hết nhiệm vụ vui lòng tải lại trang

Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nghiên cứu phương pháp điều khiển tốc độquay của tuabin trong nhà máy thủy điện Hòa Bình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên

Năng lượng điện hay còn gọi là điện năng, là dạng năng lượng thứ
cấp được tạo ra từnhiều nguồn năng lượng thứcấp khác nhau nhưnhiệt
năng (dầu, khí đốt, than, năng lượng phóng xạ, năng lượng mặt trời ),
thủy năng (sông, suối, sóng biển, thủy chiều ), năng lượng gió Đây là
loại năng lượng đóng vai trò quan trọng và được sửdụng trên khắp thếgiới
trong nhiều lĩnh vực của cuộc sống ngày nay nhưcông nghiệp, nông
nghiệp, giao thông, sinh hoạt
Việc sửdụng dạng năng lượng khác đểbiến thành điện năng của mỗi
nước là tùy vào tình hình tài nguyên và đường nối phát triển của nước đó.
Thuỷnăng là một dạng năng lượng tái tạo được. Đây là đặc tính ưu
việt nhất của nguồn năng lượng này, các nguồn năng lượng khác như:
Nguyên tử, than, dầu không thểtái tạo được. Trong quá trình biến đổi
năng lượng, chỉcó thuỷnăng sau khi biến đổi thành cơnăng và nhiệt năng
lại được tái tạo thành dạng thủy năng, còn các dạng năng lượng khác trong
quá trình biến đổi không tựtái tạo trong tựnhiên. Con người sửdụng
nguồn thuỷnăng đểphục vụcho đời sống và sản xuất, đặc biệt là đểphát
điện.
Tuỳtheo điều kiện từng nước mà tỷlệphát triển các loại nhà máy
điện có khác nhau. Theo sốliệu năm 1978 thì nhìn chung trên toàn thếgiới
năng lượng của thuỷ điện chiếm khoảng 1/3 tổng sản lượng điện năng.
Trong khi các nguồn khai thác than đã hơn 40 % thì các nguồn thuỷnăng
mới khai thác hơn 1,5 % (Điều đó không nói lên rằng sau này thuỷ điện sẽ
phát triển mạnh).
Theo thống kê năm 1978: ỞChâu âu tỷlệthuỷ điện chiếm khoảng
34% tổng sản lượng điện năng. ỞLiên Xô 19,8 %, Mỹ18,6 %, Canada 95
%, Phần Lan 91,6 %, Triều Tiên 95-98 %, Na Uy 99 %, Thụy sỹ99,5 %
trái lại ởnhiều nước châu Á và Châu Phi tuy nguồn thuỷnăng rất phong
phú nhưng tỷlệchưa đáng kểchính vì sựkìm hãm của chủnghĩa đếquốc.
Ví dụ ởnước ta: Thời kỳPháp thuộc hầu nhưkhông đểlại một thuỷ
điện nào đáng kể, trong thời gian chiến tranh ta chủtrương phát triển các
thủy điện nhỏ ởcác vùng miền núi như: Lạng Sơn, Quảng Ninh, Sơn La,
Lai Châu, giải quyết được ánh sáng, cơsởxay xát, chếbiến nhỏ, ởThanh
Hoá có thuỷ điện Bàn Thạch gồm 3×320 KW=960 KW, lợi dụng bậc núi
Nông Giang.
Thuỷ điện Thác Bà bịbom đạn tàn phá nặng nề, sau này đã khôi
phục
được xong cả3 tổmáy 3×36=108 MW, ởmiền Nam có thuỷ điện Đa
Nhim, kiểu kênh dẫn, lợi dụng độchênh mực nước giữa hai con
sông, công suất 160 MW.
Hiện nay, trữnăng lý thuyết của thuỷ điện trên cảnước ước tính 270-300 tỷKWh/năm, với công suất khoảng 32.10
6KW. Nhưng trữnăng thuỷ
điện kỹthuật (tiềm năng kinh tế) chỉcó khoảng 80 tỷKWh, Với công suất
lắp máy 17.438 MW. Tiềm năng kinh tếkỹthuật thuỷ điện nhỏkhoảng 60
tỷKWh/năm, với công suất lý thuyết 10.000 MW.