Luận văn Nghiên cứu cơ sở khoa học quản lý tổng hợp khu rừng tràm gáo giồng, tỉnh Đồng Tháp

  • Người chia sẻ : vtlong
  • Số trang : 162 trang
  • Lượt xem : 9
  • Lượt tải : 500
  • Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại

NHẬP MÃ XÁC NHẬN ĐỂ TẢI LUẬN VĂN NÀY

Nếu bạn thấy thông báo hết nhiệm vụ vui lòng tải lại trang

Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nghiên cứu cơ sở khoa học quản lý tổng hợp khu rừng tràm gáo giồng, tỉnh Đồng Tháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên

ĐBSCL có diện tích tự nhiên khoảng 3,9 triệu ha, trong đó hơn 80% là ĐNN
[57]. Trong đó có 8 khu RĐD có HST rừng tràm và ĐNN, với tổng diện tích
khoảng 30.000 ha [63]. Thực trạng quản lý rừng hiện nay tại các khu rừng này đƣợc
thực hiện theo cách tiếp cận riêng lẻ các yếu tố, chủ yếu quan tâm đến rừng tràm,
trong khi các yếu tố khác của HST ĐNN (nƣớc, đất, động thực vật, cảnh quan ) thì
vẫn còn ít đƣợc quan tâm. Việc giữ mực nƣớc cao quanh năm để giảm nguy cơ cháy
rừng đã làm HST ĐNN theo mùa trở thành HST ĐNN quanh năm, làm hạn chế sinh
trƣởng của cây tràm, làm gốc cây tràm không còn bám đƣợc vào đất và cây sẽ chết,
môi trƣờng sống của các sinh cảnh đồng cỏ ngập nƣớc theo mùa bị thu hẹp, từ đó
làm mất đi nơi cƣ trú của các loài chim nƣớc, lƣỡng cƣ, bò sát, cá, thú, thực vật.
Bên cạnh đó, các quy định của pháp luật trƣớc đây (Luật Bảo vệ và phát triển
rừng 2004 và các văn bản quy phạm pháp luật thi hành Luật này) và hiện nay (Luật
Lâm nghiệp số 16/2017/QH14 [48], Nghị định 156/2018/NĐ-CP ngày 16/11/2018
của Chính phủ về việc quy định chi tiết một số điều của Luật Lâm nghiệp) về khai
thác, sử dụng tài nguyên trong RĐD chỉ quy định đối với đối tƣợng là rừng và RĐD
ở vùng cao. Còn các tài nguyên của ĐNN trong RĐD ở vùng ĐNN chƣa đƣợc quy
định rõ ràng. Qua đó cho thấy các văn bản pháp luật trên chỉ áp dụng đúng cho các
khu RĐD ở vùng cao, còn các khu RĐD ở vùng ĐNN chƣa hề đề cập đến. Nếu nhƣ
áp dụng các quy định trên vào HST rừng tràm trên vùng ĐNN ở ĐBSCL thì rất lãng
phí tài nguyên đặc biệt là nguồn lợi thủy sản nói chung và nguồn lợi cá đen nói
riêng (các loài cá này theo nƣớc lũ sẽ di cƣ từ sông Mê Công vào trú trong các khu
rừng ở vùng Đồng Tháp Mƣời, vào mùa khô nếu không khai thác thì cá cũng chết
do nƣớc rút dần, nếu khai thác thì vi phạm quy chế quản lý RĐD đối với Phân khu
bảo vệ nghiêm ngặt). Trong khi đó cuộc sống của CĐĐP sống trong vùng đệm các
khu bảo tồn là hết sức khó khăn, rất cần một cơ chế chia sẻ lợi ích tài nguyên rừng
gắn với việc quản lý bảo vệ rừng có sự tham gia của CĐĐP.