Luận văn Nghiên cứu ảnh hưởng ở gốc ghép đến khả năng chống chịu bệnh héo xanh, sự sinh trưởng, năng suất và chất lượng cây ớt cay

  • Người chia sẻ : vtlong
  • Số trang : 30 trang
  • Lượt xem : 6
  • Lượt tải : 500
  • Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại

NHẬP MÃ XÁC NHẬN ĐỂ TẢI LUẬN VĂN NÀY

Nếu bạn thấy thông báo hết nhiệm vụ vui lòng tải lại trang

Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nghiên cứu ảnh hưởng ở gốc ghép đến khả năng chống chịu bệnh héo xanh, sự sinh trưởng, năng suất và chất lượng cây ớt cay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên

Bệnh héo xanh (bacteria wilt) đã và đang gây thiệt hại nặng nề ở các vùng
chuyên canh ớt cay và ớt ngọt trên thế giới. Vi khuẩn Ralstonia solanacearum (R.
solanacearum) là tác nhân gây bệnh trên vài trăm loại cây trồng khác nhau thuộc
44 họ ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới (Hayward, 1991 và Mimura et al., 2009). Ở
Việt Nam vi khuẩn R. solanacearum gây hại quan trọng trên khoai tây, cà chua, ớt,
cà tím, khổ qua, khoai lang, gừng, (Burgess et al., 2008), vi khuẩn này có phạm
vi ký chủ rộng và lưu tồn rất lâu trong đất, bệnh thường phát triển và gây hại nặng
trong điều kiện nhiệt độ cao và ẩm độ cao, đặc biệt trong mùa mưa (Phạm Văn
Kim, 2000; Hà Viết Cường, 2008). Ở Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), vùng
chuyên canh ớt huyện Thanh Bình-tỉnh Đồng Tháp hàng năm có khoảng 1.500 ha,
chủ yếu xuất khẩu; vùng trồng tập trung ở huyện Chợ Mới và An Phú-tỉnh An
Giang, huyện Châu Thành và Chợ Gạo-tỉnh Tiền Giang, huyện Giồng Riềng-tỉnh
Kiên Giang. đã bị bệnh héo xanh gây thiệt hại nặng nề, đang là một trong những
vấn đề nan giải trong sản xuất ớt (Trần Thị Ba, 2016).
Mầm bệnh héo xanh lưu tồn lâu trong xác bả thực vật, có thể lan truyền qua
hạt, đất, động vật và con người. Hiện nay chưa có biện pháp phòng trị hiệu quả
bệnh héo xanh, chủ yếu dựa vào biện pháp hóa học, gây phá vỡ cân bằng sinh học,
tác nhân dễ phát sinh nòi kháng đồng thời gây ô nhiễm môi trường và ảnh hưởng
đến an toàn thực phẩm (Keinath et al., 1998 và Ji et al., 2008), nhưng cũng chưa
mang lại hiệu quả cao vì thuốc không thể thấm sâu vào vùng rễ. Một số phương
pháp kiểm soát bệnh đã được khuyến cáo như vệ sinh đồng ruộng, luân canh và sử
dụng vi khuẩn đối kháng, nhưng sử dụng giống ớt chống chịu bệnh là một chiến
lược chính đối với bệnh héo xanh vi khuẩn R. solanacearum trên ớt (Tran Ngoc
Hung and Byung-Soo Kim, 2012). Việc nghiên cứu chọn giống ớt chưa được quan
tâm nhiều nên năng suất chưa cao (Trương Trọng Ngôn và Nguyễn Trí Yến Chi,
2013). Sử dụng gốc ghép là một trong những biện pháp phòng ngừa bệnh héo xanh
khả thi nhất, được sử dụng rộng rãi trên thế giới. Thông qua gốc ghép, cây trồng có
khả năng chống chịu tốt với điều kiện bất lợi của môi trường đất như mầm bệnh,
ngập úng, khô hạn (Schwarz et al., 2010). Ưu điểm của biện pháp ghép trong canh
tác cây rau là giúp cây kháng bệnh đặc biệt là mầm bệnh trong đất, bệnh héo rũ do
nấm Fusarium spp., bệnh héo xanh do vi khuẩn R. solanacearum và tuyến trùng rễ
trên dưa leo, dưa hấu, cà chua, ớt, (Sanjun, 2009). Từ năm 2000, người dân tỉnh
Lâm Đồng đã sử dụng cây ghép cho vùng chuyên canh cà chua, nhiều tỉnh ở
ĐBSCL cũng trồng cà chua và dưa hấu ghép đạt hiệu quả kinh tế cao (Ngô Quang3
Vinh và Ngô Xuân Chinh, 2003). Tuy nhiên, cho đến nay, ở nước ta chưa tìm thấy
công trình nghiên cứu nào được công bố về sử dụng gốc ghép cho cây ớt cay nhằm
hạn chế thiệt hại do bệnh héo xanh và ổn định năng suất trái ớt.