Luận văn Một số dịch vụ trong giao nhận vận tải quốc tế và giải pháp phát triển ở Việt Nam
- Người chia sẻ :
- Số trang : 119 trang
- Lượt xem : 7
- Lượt tải : 500
- Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số dịch vụ trong giao nhận vận tải quốc tế và giải pháp phát triển ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên
Trong xu thế quốc tế hoá nền kinh tế thế giới, hoạt động ngoại thƣơng đƣợc xem nhƣ một công cụ hữu hiệu để đẩy mạnh tốc độ tăng trƣởng và phát triển kinh tế của đất nƣớc. Gắn liền với việc XNK hàng hoá luôn là các thủ tục rắc rối, những khó khăn do việc di chuyển qua biên giới với một khoảng cách địa lý thƣờng là rất lớn so với buôn bán trong nội địa mang lại. Tuy nhiên “gánh nặng” XNK này lại thƣờng đƣợc chuyển một phần thậm chí là tất cả sang vai của một ngƣời đó là “Ngƣời giao nhận”. Với những sự phát triển của thƣơng mại quốc tế ngành giao nhận ngày càng phát triển và giữ một vị trí quan trọng trong sự lƣu chuyển hàng hoá giữa các nƣớc và giữa các châu lục. Trên thế giới, giao nh ận vận tải quốc tế (GNVTQT) thực sự phát triển mạnh mẽ vào những năm 60, 70 của thế kỷ XX. Tuy vậy, tại Việt Nam giao nhận mới chỉ đƣợc thật sự quan tâm trong khoảng 15 năm trở lại đây. GNVTQT là một khâu vô cùng quan trọng thúc đẩy quá trình dịch chuyển hàng hoá từ ngƣời bán đến ngƣời mua diễn ra đƣợc nhanh chóng, thuận tiện hơn, giảm chi phí và thời gian cho các bên tham gia kinh doanh, góp phần không nhỏ vào việc thực hiện có hiệu quả các hợp đồng mua bán ngoại thƣơng. Cho nên, tuy mới ra đời nhƣng nó đã trở thành một bộ phận không thể thiếu trong ngành vận tải và trong nền kinh tế quốc dân. 1. Tính cấp thiết của đề tài: Kể từ năm “Đổi mới” 1986 đến nay, chúng ta đã trải qua gần 20 năm tăng trƣởng, nền kinh tế nƣớc ta đang trong quá trình chuyển dần sang nền kinh tế sản xuất hàng hoá nhiều thành phần, một nền kinh tế mở cửa và vận hành theo cơ chế thị trƣờng có sự điều tiết của nhà nƣớc. Nền kinh tế mở cửa này đã tạo điều kiện cho thƣơng mại quốc tế phát triển nhằm đảm bảo sự lƣu thông hàng hóa với nƣớc ngoài, khai thác tiềm năng và thế mạnh của nƣớc ta và thế giới. Bằng việc thu hút ngày càng nhiều các nguồn vốn đầu tƣ trực tiếp từ nƣớc ngòai cộng với việc phát huy mạnh mẽ nội lực của nền kinh tế trong nƣớc, tốc độ tăng trƣởng kinh tế của nƣớc ta, đặc biệt quan hệ buôn bán với nƣớc ngoài ngày càng tăng, lƣợng hàng hoá XNK hàng năm tăng mạnh. Năm 2003 vừa qua đƣợc đánh giá là một năm thành công của Việt Nam với tốc độ tăng trƣởng đạt gần 7,2%, cao nhất trong khu vực Châu Á Thái Bình Dƣơng. Chính sách mở cửa hội nhập với nƣớc ngoài đã tạo ra những cơ hội mới cho – 2 -nền kinh tế Việt Nam, tạo ra thị trƣờng to lớn đầy tiềm năng nhƣng cũng đang đặt ra nhiều thách thức cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế nói chung và doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ giao nhận vận tải nói riêng. Việt Nam có điều kiện địa lý thuận lợi với hơn 3000 km bờ biển chạy dài theo đất nƣớc nằm dọc bờ biển Thái Bình Dƣơng, nhiều cảng biển tự nhiên, rất thuận lợi cho sự phát triển ngành vận tải biển. Do vậy, ngành vận tải biển Việt Nam đã xuất hiện từ rất lâu và đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong nền kinh tế quốc dân và trong việc mua bán trao đổi hàng hóa giữa Việt Nam và phần còn lại của thế giới. Giao thƣơng bằng đƣờng biển đã hình thành và phát triển, ngành vận tải biển đã đƣợc chú trọng nhƣ một phƣơng thức vận chuyển phổ biến nhất. Kể từ khi Việt Nam thực hiện chính sách mở cửa nền kinh tế, đáng chú ý là từ năm 1990 trở lại đây, ngành nghề dịch vụ GNVTQT đã phát triển mạnh cả về số lƣợng kim ngạch, quy mô hoạt động cũng nhƣ phạm vi thị trƣờng với nƣớc ngoài. Đây là một loại dịch vụ thƣơng mại không cần đầu tƣ nhiều vốn nhƣng lợi nhuận tƣơng đối ổn định. Chúng ta có thể nhận định rằng việc phát triển kinh doanh dịch vụ GNVTQT ở nƣớc ta đã mang lại những hiệu quả kinh tế thiết thực. GNVTQT tạo ra đƣợc sự chuyên môn hóa cao trong các khâu của họat động kinh tế ngoại thƣơng, qua đó giảm thiểu đƣợc các chi phí phát sinh trong quá trình vận chuyển. Đây cũng là một ngành nghề còn đang đƣợc bỏ ngỏ, do vậy nó có khả năng tạo ra đƣợc thêm công ăn việc làm cho ngƣời dân lao động. Phát triển các dịch vụ GNVTQT ở Việt Nam tạo sức mạnh cho nền kinh tế chống lại việc nhập siêu ồ ạt các sản phẩm vô hình này từ nƣớc ngoài. Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi nêu trên thì hiện nay công tác giao nhận hàng hóa XNK nói chung và kinh doanh dịch vụ GNVTQT nói riêng đang gặp phải một số khó khăn nhƣ sau: – Do đây là một lĩnh vực, một loại hình kinh doanh còn nhiều mới mẻ và ngƣời kinh doanh trong lĩnh vực này còn thiếu nhiều kinh nghiệm thực tế trong giai đoạn mà nền kinh tế của nƣớc ta đang tìm cách hội nhập với kinh tế thế giới. – Chủ trƣơng chuyển đổi nền kinh tế từ tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trƣờng theo định hƣớng XHCN vẫn còn chƣa đƣợc thực thi một cách triệt để, nền kinh tế vẫn còn mang nặng tính bao cấp, độc quyền trong kinh doanh vẫn là một thực tế, do đó việc kết hợp giữa các ngành, các cấp với công tác giao nhận hàng hóa XNK vẫn còn nhiều hạn chế và bất cập cần sửa đổi. – 3 — Cơ sở hạ tầng phục vụ cho công tác giao nhận hàng hóa XNK nhìn chung là thiếu thốn và lạc hậu. – Nhiều văn bản pháp luật còn chồng chéo và không thống nhất về quan điểm nên chƣa tạo ra đƣợc một hành lang pháp lý thông thoáng cho công tác giao nhận, phát sinh nhiều khó khăn cho doanh nghiệp trong kinh doanh giao nhận hàng hóa XNK. – Do đặc điểm của nền kinh tế và thói quen của ngƣời XNK nên chúng ta đang gặp phải sự cạnh tranh gay gắt về hàng hóa và thị trƣờng đối với các công ty giao nhận nƣớc ngoài trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Chính vì lẽ đó việc nghiên cứu, nhằm phát họa rõ nét về lĩnh vực giao nhận hàng hóa thông qua việc mô tả các hình thức dịch vụ GNVTQT cũng nhƣ những lợi ích mà nó đem lại, đánh giá thực trạng những thuận lợi và khó khăn của GNVTQT, từ đó đề xuất những giải pháp để phát triển các dịch vụ trong hoạt động GNVTQT ở Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế là một việc làm thiết thực và cần thiết. Trên cơ sở nhận thức nhƣ vậy, tôi đã chọn đề tài cho luận văn thạc sỹ là: “Một số dịch vụ trong giao nhận vận tải quốc tế và giải pháp phát triển ở Việt Nam” 2. Tình hình nghiên cứu đề tài này trong và ngoài nƣớc: Tới nay cũng đã có một số tác giả tập trung nghiên cứu về lý luận giao nhận hàng hóa và tình hình giao nhận hàng hóa XNK trên thế giới nói chung, tuy nhiên chƣa có một tác giả nào nghiên cứu về các dịch vụ trong GNVTQT tại Việt Nam cũng nhƣ về các dịch vụ sẵn có mà ngƣời giao nhận có thể cung cấp để từ đó có thể xây dựng chiến lƣợc nhằm áp dụng vào môi trƣờng kinh tế-xã hội của Việt Nam. Đây cũng chính là một trong những lý do mà tác giả đã chọn đề tài này để làm luận văn thạc sỹ của mình. Hơn nữa, đây là luận văn nghiên cứu một cách toàn diện, hệ thống, khoa học, đánh giá thực trạng về một số dịch vụ trong GNVTQT, lấy các ví dụ minh họa từ một số công ty giao nhận tại Việt Nam trong giai đoạn vừa qua nhằm đƣa ra một số giải pháp nâng cao hiệu quả của công tác này trong thời gian tới.
