Luận văn Khảo sát cơ lý tính của vật liệu composite nhựa urea – Formaldehyde và sợi sisal

  • Người chia sẻ :
  • Số trang : 103 trang
  • Lượt xem : 9
  • Lượt tải : 500
  • Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại

NHẬP MÃ XÁC NHẬN ĐỂ TẢI LUẬN VĂN NÀY

Nếu bạn thấy thông báo hết nhiệm vụ vui lòng tải lại trang

Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Khảo sát cơ lý tính của vật liệu composite nhựa urea – Formaldehyde và sợi sisal, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên

Những vật liệu composite đơn giản đã có từ rất xa xưa. Khoảng 5000 năm trước công nguyên con người đã biết trộn những viên đá nhỏ vào đất trước khi làm gạch để tránh bị cong vênh khi phơi nắng. Người Hy Lạp cổ cũng đã biết lấy mật ong trộn với đất, đá, cát sỏi làm vật liệu xây dựng. Và ở Việt Nam, ngày xưa truyền lại cách làm nhà bằng bùn trộn với rơm băm nhỏ để trát vách nhà, khi khô tạo ra lớp vật liệu cứng, mát về mùa hè và ấm vào mùa đông. Hiện nay, loại vật liệu này được ứng dụng phổ biến trong nhiều lĩnh vực khác nhau và thị phần của nó tăng với tốc độ nhanh. Điều này là do composite nền nhựa có tính năng đặc thù là bền, nhẹ, dễ gia công. Công nghệ sản xuất loại composite này khá đơn giản, chu kì ngắn, vốn đầu tư không lớn nên thu hồi vốn nhanh, vì thế ngành công nghiệp này đang được giới đầu tư quan tâm mở rộng. Trong ngành công nghiệp xây dựng thì thị phần của vật liệu composite tăng lên đáng kể, cụ thể là ngày compsite dần thay thế các cấu trúc xi măng. Đối với lĩnh vực hàng tiêu dùng, có sự gia tăng đáng kể trong hàng tiêu dùng hằng ngày cũng như giải trí cụ thể là các thiết bị thể thao. Giao thông là lĩnh vực ứng dụng sâu rộng nhất đối với loại vật liệu này. Có sự khác nhau về tính năng của vật liệu composite giữa Mỹ và các nước châu Âu. Người châu Âu thì chú trọng đến khả năng tái sử dụng và khối lượng của vật liệu còn người Mỹ thì nhấn mạnh đến độ bền. Điều này ảnh hưởng đến loại polymer được sử dụng. Ở Mỹ thì loại nhựa nhiệt rắn được ưu tiên hơn, trong khi đó các nước châu Âu lại lựa chọn nhựa nhiệt dẻo. Thị phần vật liệu composite nền nhựa năm 2001 trên toàn thế giới là 5.73 triệu tấn hoặc khoảng 15 triệu đô la. Mỹ, các nước châu Âu, châu Á Thái Bình Dương là các nước chiếm thị phần lớn nhất, lần lược là 31%, 27% và 26%.