Luận văn Cải cách hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam trong bối cảnh gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO

  • Người chia sẻ :
  • Số trang : 86 trang
  • Lượt xem : 10
  • Lượt tải : 500
  • Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại

NHẬP MÃ XÁC NHẬN ĐỂ TẢI LUẬN VĂN NÀY

Nếu bạn thấy thông báo hết nhiệm vụ vui lòng tải lại trang

Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Cải cách hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam trong bối cảnh gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên

Ngân hàng là lĩnh vực hoàn toàn mở trong cam kết gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) của Việt Nam với lộ trỡnh 7 năm. Chính vỡ vậy trong bối cảnh Việt Nam gia nhập WTO, thỡ hơn bất cứ ngành nào, lĩnh vực ngân hàng cần phải tăng tốc cải cách nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh để không bị thua thiệt ngay trên chính “sân nhà”. Ngay từ năm 2006, Việt Nam phải gỡ bỏ dần các hạn chế về tỷ lệ tham gia cổ phần của các định chế tài chính nước ngoài theo những cam kết trong Hiệp định Thương mại với Hoa Kỳ. Đến năm 2008, Việt Nam sẽ phải “mở” toàn bộ các quy định về việc khống chế tỷ lệ tham gia góp vốn, dịch vụ, giá trị giao dịch của các ngân hàng nước ngoài theo các cam kết trong khuôn khổ Hiệp định khung về hợp tác thương mại dịch vụ (AFAS) của Hiệp hội các nước ASEAN. Báo cáo phát triển mới đây của Ngân hàng Thế giới (WB) cho thấy, ngân hàng là lĩnh vực chậm cải cách nhất trong nền kinh tế năng động của Việt Nam. Chưa hẳn đồng tỡnh với quan điểm này của WB, nhưng Ngân hàng Nhà nước cũng thừa nhận, thách thức lớn nhất đối với quá trỡnh hội nhập quốc tế trong dịch vụ ngõn hàng của Việt Nam là xuất phỏt điểm cũn thấp về trỡnh độ phát triển thị trường, tiềm lực về vốn yếu, công nghệ và tổ chức ngân hàng lạc hậu và trỡnh độ quản lý thấp hơn so với nhiều nước trong khu vực cũng như trên thế giới. Khi Việt Nam gia nhập WTO, các tổ chức tài chính nước ngoài có thể nắm giữ cổ phần của các ngân hàng Việt Nam. Những ngân hàng yếu kém, quy mô nhỏ sẽ phải sáp nhập. Đặc biệt, việc xuất hiện các ngân hàng 100% vốn nước ngoài sẽ làm thay đổi mạnh cơ cấu thị phần tiền tệ. Trong khi điểm mạnh của các ngân hàng nước ngoài là dịch vụ (chiếm tới trên 40% tổng thu nhập) thỡ tỡnh trạng “độc canh” tín dụng vẫn cũn phổ biến ở hầu hết cỏc ngõn hàng Việt Nam. Sản phẩm dịch vụ cũn nghốo nàn, thiếu cỏc định chế quản lý theo tiêu chuẩn quốc tế như quản trị rủi ro, quản trị tài sản nợ, tài sản có, nhóm khách hàng, loại sản phẩm, kiểm toán nội bộ. Dự kiến, đến giai đoạn 2010-2020, hệ thống ngân hàng Nhà nước phải đóng một vai trũ nhất định trong khu vực và trên thị trường tài chính quốc tế. Một số Tập đoàn ngân hàng Việt Nam đó phải ở trỡnh độ khá lớn mạnh và có ảnh hưởng trực tiếp đến nhịp điệu tài chính khu vực. Các cổ phiếu hoặc trái phiếu phát ra từ ngân hàng Việt Nam sẽ có mặt ở nhiều ngân hàng nước ngoài. Đồng tiền Việt Nam cần được cải cách mệnh giá và mở rộng được biên giới tự do chuyển đổi trong khu vực.