Luận văn Biện pháp quản lý các dự án hợp tác quốc tế về đào tạo tại trường đại học giao thông vận tải trong giai đoạn hiện nay

  • Người chia sẻ :
  • Số trang : 98 trang
  • Lượt xem : 9
  • Lượt tải : 500

Các file đính kèm theo tài liệu này

  • Noi dung LV 27.3.doc
  • Bia 2.doc
  • Tom tat.doc
  • Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại

NHẬP MÃ XÁC NHẬN ĐỂ TẢI LUẬN VĂN NÀY

Nếu bạn thấy thông báo hết nhiệm vụ vui lòng tải lại trang

Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Biện pháp quản lý các dự án hợp tác quốc tế về đào tạo tại trường đại học giao thông vận tải trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên

Hội nhập khu vực và thế giới trong mọi lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa và đặc biệt giáo dục và đào tạo là một xu thế tất yếu trong thời đại ngày nay và nước ta không thể đứng ngoài cuộc. Đại hội Đảng IX cũng đã đưa ra quan điểm: “Phát huy nội lực, nội lực là quyết định, ngoại lực là quan trọng, gắn kết với nhau thành nguồn lực tổng hợp để phát triển”. Trong xu thế đó, các trường đại học Việt nam nói chung và trường Đại học Giao thông Vận tải nói riêng đang đứng trước nhiều cơ hội phát triển đồng thời cũng đối diện với nhiều thách thức. Một trong những hoạt động có ý nghĩa hội nhập quốc tế hiện nay là hợp tác giữa các trường đại học trong nước với các trường đại học tiên tiến trong khu vực và trên thế giới qua hình thức dự án. Đối với trường Đại học Giao thông Vận tải thì hình thức này ngày càng được mở rộng và góp phần đáng kể nâng cao năng lực của nhà trường cả về nhân lực, tài lực và vật lực, đồng thời khẳng định uy tín của nhà trường trong nước cũng như trong khu vực. Chính vì vậy Nhà trường cần có sự quan tâm thích đáng để đảm bảo dự án hoạt động một cách chính quy, bài bản và đạt hiệu quả cao. Trường Đại học Giao thông Vận tải được thành lập từ năm 1945 dưới chính quyền Cách mạng với tên là trường Cao đẳng Công chính. Năm 1962, Nhà trường chính thức đổi tên thành trường Đại học Giao thông Vận tải theo quyết định số 42/CP của Hội đồng Chính phủ. Trường là một trong những trung tâm đào tạo, nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ lớn trong lĩnh vực giao thông vận tải ở Việt nam. Trong hơn 60 năm xây dựng, trưởng thành và phát triển, trường Đại học Giao thông Vận tải đã được Đảng và Nhà nước tặng thưởng nhiều phần thưởng cao quý cho những thành tích đóng góp của nhà trường đối với sự nghiệp đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho nền kinh tế quốc dân. Công tác quan hệ quốc tế, hợp tác đào tạo và nghiên cứu khoa học đã góp phần quan trọng trong những thành tích của trường. Nhận thức rõ tầm quan trọng của các chương trình, dự án hợp tác quốc tế trong tiến trình phát triển và khẳng định vị thế của trường trong nước và trong khu vực, Nhà trường đã chính thức thành lập Phòng Đối ngoại từ tháng 10 năm 1994 với một trong những chức năng chính là tham mưu cho Hiệu trưởng về chính sách phát triển đào tạo quốc tế của Đại học GTVT; quản lý và tổ chức thực hiện các dự án hợp tác quốc tế về đào tạo và nghiên cứu khoa học. Có thể nói, việc nghiên cứu, tiếp nhận, phổ cập kiến thức khoa học kỹ thuật hiện đại và vươn lên tiếp nhận những công nghệ tiên tiến trong đào tạo của các trường đại học tiên tiến trên thế giới đã được nhà trường quan tâm ngay từ những ngày thành lập. Tuy nhiên, việc tiếp nhận này mới chỉ được thực hiện thông qua các chương trình, dự án hợp tác đào tạo và nghiên cứu khoa học lẻ tẻ, chưa thực sự khoa học và bài bản nên chưa đạt được hiệu quả như mong muốn. Trong bối cảnh chung của xã hội trước thềm hội nhập, Đảng uỷ và Ban Giám hiệu nhà trường đã chủ động quan tâm chú trọng phát triển hoạt động hợp tác quốc tế nhằm duy trì phát triển quan hệ hợp tác với nhiều tổ chức, doanh nghiệp, trường đại học có uy tín trong khu vực và trên thế giới. Hoạt động quan hệ hợp tác quốc tế ngày càng phát triển hơn cả về quy mô và đa dạng trên nhiều lĩnh vực. Nhiều dự án đào tạo quốc tế, chương trình hợp tác song phương được thực hiện đã góp phần tích cực trong việc đào tạo các kỹ sư, thạc sỹ và tiến sỹ khoa học giao thông vận tải chất lượng cao, nâng cao trình độ cho giảng viên, trình độ quản lý cho cán bộ, cải tiến chương trình đào tạo, mở thêm nhiều chuyên ngành đào tạo mới cho trường và tăng cường cơ sở vật chất phục vụ giảng dạy. Thông qua các chương trình, dự án này, năng lực của nhà trường không ngừng được cải thiện, uy tín của trường không ngừng được nâng cao trong nước cũng như trong khu vực và trên thế giới. Đây chính là nhân tố tích cực mà nhà trường cần phát huy hơn nữa. Tuy nhiên việc mở rộng và gia tăng về số lượng các dự án trong trường cũng gây ra sự chưa đồng bộ trong phương thức quản lý và theo kết quả khảo sát gần đây nhất của Bộ Giáo dục và Đào tạo thì một số các dự án hợp tác quốc tế về đào tạo chưa đầy đủ cơ sở pháp lý, quy trình thực hiện dự án đôi khi còn thiếu Và cũng vì vậy mà hiệu quả do các dự án đem lại cũng chưa thực sự như mong muốn của các nhà hoạch định dự án và các cấp lãnh đạo. Nhiều dự án được xây dựng, ký kết nhưng các cán bộ quản lý lại thấy vô cùng lúng túng và khó khăn khi triển khai vào thực tế. Theo thống kê của Phòng Đối ngoại thì từ năm 1995 đến nay chỉ 60% trong số các dự án đã xây dựng và ký kết được triển khai và chỉ có 70% trong số này đạt được các mục tiêu đề ra. Trên thực tế, có các dự án, chương trình hợp tác quốc tế về đào tạo, Phòng Đối ngoại mới chỉ dừng lại ở việc quản lý trên giấy tờ và điều này rõ ràng là chưa đủ. Một trong những nguyên nhân của của vấn đề này chính là số lượng các cán bộ quản lý dự án còn quá ít ỏi, lại là những giảng viên chuyên môn kiêm nhiệm, không ai được đào tạo chính qui về lĩnh vực quan hệ quốc tế và quản lý dự án, vốn ngoại ngữ rất hạn chế, kiến thức quản lý dự án đều do tự học hỏi, trau dồi mà có chứ không được đào tạo một cách bài bản. Thêm vào đó,việc có nhiều đơn vị tham gia vào quá trình hợp tác quốc tế về đào tạo với nhiều loại hình cũng gây khó khăn không chỉ cho các đơn vị quản lý chức năng mà còn cho cả các cá nhân, những người quan tâm khi tìm hiểu và lựa chọn chương trình phù hợp. Thực trạng đó cho thấy Nhà trường nên có biện pháp phân cấp rõ ràng, trao quyền lực, giao trách nhiệm cụ thể và đào tạo cán bộ quản lý dự án chuyên nghiệp để việc quản lý các dự án hợp tác quốc tế về đào tạo của trường được thực hiện theo một quy trình chuẩn thống nhất.