Luận bàn về tiêu chí thẩm định tính khả thi của dự thảo văn bản quy phạm pháp luật

  • Người chia sẻ : vtlong
  • Số trang : 10 trang
  • Lượt xem : 6
  • Lượt tải : 500
  • Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại

NHẬP MÃ XÁC NHẬN ĐỂ TẢI LUẬN VĂN NÀY

Nếu bạn thấy thông báo hết nhiệm vụ vui lòng tải lại trang

Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận bàn về tiêu chí thẩm định tính khả thi của dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên

Thẩm định văn bản qui phạm pháp luật là một hoạt động thuộc qui trình soạn thảo, ban hành văn bản qui phạm pháp luật do cơ quan có thẩm quyền tiến hành nhằm nhận xét, đánh giá về đối tượng, phạm vi điều chỉnh của văn bản, về tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất và đồng bộ của dự thảovăn bản trong hệ thống phápluật hiện hành. Thẩm định dự thảo văn bản cũng đưa ra những nhận xét về chất lượng của dự thảo văn bản thông qua việc đánh giá về nội dung và kỷ thuật soạn thảo văn bản. Đồng thời, cơ quan tiến hành thẩm định dự thảo văn bản qui phạm pháp luật (VBQPPL) cũng đưa ra những ý kiến và đề xuất biện pháp giải quyết đối với những vấn đề còn có ý kiến khác nhau giữa các cơ quan có liên quan trong quá trình soạn thảo văn bản để cơ quancó thẩm quyền xem xét, quyết định.
Trên thực tế, công tác thẩm định là một khâu không thể thiếu của qui trình soạn thảo và ban hành VBQPPL. Mục đích của thẩm định là “thẩm tra” và “giám định” những vấn đề cơ bản, quan trọng trực tiếp liên quan đến chất lượng và kỹ thuật của dự thảo văn bản được thẩm định. Hoạt động thẩm định còn là khâu cuối cùng trước khi cơ quan, người có thẩm quyền chính thức xem xét, ban hành văn bản (đối với dự thảo Nghị định của Chính phủ; quyết định của Thủ tướng Chính phủ; và thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ), hoặc trước khi Chính phủ xem xét, thông qua để trình Quốc hội (đối với dự án luật, nghị quyết của Quốc hội) hoặc Uỷ ban thường vụ Quốc hội (đối với dự án pháp lệnh, Nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội) xem xét, ban hành. Với ý nghĩa là hoạt động tiền kiểm trong qui trình soạn thảo và ban hành VBQPPL, thẩm định đã trở thành một chế định tương đối hoàn chỉnh và được ghi nhận tại hai đạo luật về Ban hành văn bản qui phạm pháp luật. Cùng với đó là việc cụ thể hoá nội dung này tại Quyết định số 05/2007/QĐ-TTg ngày 10/01/2007 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Qui chế thẩm định dự án, dự thảo VBQPPL, và gần đây nhất là Quyết định số 1048/QĐ-BTP ngày 08/04/2010 của Bộ Trưởng Bộ Tư pháp về Thẩm định dự án, dự thảo VBQPPL. Theo tinh thần xuyên suốt của Quyết định số 1048/QĐ-BTP ngày 08/04/2010, ngoài những nguyên tắc cơ bản về thẩm định được qui định tại điều 2, thì hoạt động thẩm định hiện hành còn được xem xét một cách nhất quán, và thống nhất với các tiêu chí cụ thể được qui định tại Chương II, trong 6 điều, từ Điều 9 đến Điều 14. Như vậy, có thể nói lần đầu tiên hoạt động thẩm định do cơ quan có chức năng chuyên môn giữ trọng trách thẩm định các dự án, dự thảo VBQPPL của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và Bộ trưởng Bộ Tư pháp (điều 1) trước khi trình các chủ thể có thẩm quyền xem xét, ban hành là Bộ Tư pháp đã đề cập một cách cụ thể các tiêu chí cần xem xét, đánh giá nhằm bảo đảm chất lượng của các dự án, dự thảo VBQPPL. Trong rất nhiều tiêu chí thẩm định được đưa ra nhằm đánh giá một cách toàn diện, khách quan, khoa học dự thảo VBQPPL, bài viết này xin đi sâu tìm hiểu tiêu chí thứ 5 – thẩm định tính khả thi của dự án, dự thảo VBQPPL (Điều 13) với ý nghĩa cần thiếit và có tính bắt buộc trong hoạt động thẩm định dự thảo VBQPPL.
Theo Viện Ngôn ngữ học, Trung tâm Từ điển học Từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản Đà nẵng năm 2005, khái niệm về tiêu chí được hiểu là “tính chất, dấu hiệu làm căn cứ để nhận biết, xếp loại một sự vật, một khái niệm”. Như vậy, các tiêu chí thẩm định dự án, dự thảo VBQPPL theo đó được biết đến là “tính chất” và những “dấu hiệu” cần thiết làm căn cứ để nhận biết, đánh giá về chất lượng và khả năng thực thi của VBQPPL trên thực tế. Trong rất nhiều dấu hiệu cần xem xét, đánh giá khi tiến hành thẩm định dự án, dự thảo VBQPPL thì tính khả thi là một thuộc tính mang ý nghĩa quan trọng hơn cả. Điều này cho thấy, việc bảo đảm tính khả thi của các dự án, dự thảo có liên quan mật thiết với các yếu tố xã hội, chịu tác động từ tốc độ phát triển và điều kiện phát triển kinh tế, xã hội ở Việt Nam tại những thời điểm nhất định.
Cũng theo Viện Ngôn ngữ học, Trung tâm từ điển học, Từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản Đà Nẵng năm 2005 – khả thi được hiểu là “khả năng thực hiện được”. Theo đó, có thể hiểu một văn bản pháp luật có tính khả thi là văn bản pháp luật có đủ khả năng thực hiện được trên thực tế, hay nói cách khác là những qui định của pháp luật có khả năng đi vào cuộc sống và phục vụ cuộc sống. Hơn nữa, tính khả thi của văn bản pháp luật còn là mối liên hệ trực tiếp giữa tính hợp pháp và sự thoả mãn những đòi hỏi cơ bản của đời sống xã hội, là thuộc tính của những văn bản có thể thi hành được trong thực tiễn vì có nội dung phù hợp với các điều kiện khách quan của đời sống xã hội.
Vấn đề cần nói ở đây là giữa tính khả thi của văn bản pháp luật và hiệu lực của văn bản pháp luật có mối liên hệ và chi phối đến nhau như thế nào? Trong đó, khả năng tác động của văn bản (Hiệu lực) và khả năng thực hiện văn bản (khả thi) yếu tố nào được chú trọng hơn cả?