Luận án Ứng dụng chỉ thị phân tử trong cải thiện một số chỉ tiêu về năng suất sinh sản của gà ác (gallus gallus domesticus brisson)

  • Người chia sẻ : vtlong
  • Số trang : 172 trang
  • Lượt xem : 10
  • Lượt tải : 500

Các file đính kèm theo tài liệu này

  • luan_an_ung_dung_chi_thi_phan_tu_trong_cai_thien_mot_so_chi.pdf
  • Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại

NHẬP MÃ XÁC NHẬN ĐỂ TẢI LUẬN VĂN NÀY

Nếu bạn thấy thông báo hết nhiệm vụ vui lòng tải lại trang

Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Ứng dụng chỉ thị phân tử trong cải thiện một số chỉ tiêu về năng suất sinh sản của gà ác (gallus gallus domesticus brisson), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên

Song song đó, Trương Văn Phước và ctv. (2016b) xác định các giá trị năng lượng trao đổi biểu kiến, có hiệu chỉnh nitơ, năng lượng trao đổi thật và hiệu chỉnh của 17 loại thực liệu được bố trí vào 17 khẩu phần cho 216 gà Ác đẻ trứng ở 30 tuần tuổi. Kết quả cho thấy bắp có giá trị năng lượng trao đổi biểu kiến và hiệu chỉnh nitơ cao nhất (3.463 và 3.381 kcal/kg) và thấp nhất là cám mì viên (2.128 và 2.101 kcal/kg). Nhóm thức ăn protein, bột cá có 65% protein có hiệu chỉnh nitơ cao nhất (3.276 kcal/kg) và thấp nhất là khô dầu cọ (1.483 kcal/kg). Ngoài ra, Trương Văn Phước và ctv. (2016c) đánh giá ảnh hưởng các mức độ protein và năng lượng của khẩu phần lên tỷ lệ đẻ của 384 gà Ác giai đoạn 20-28 tuần tuổi và kết quả cho thấy khẩu phần có 16% hoặc 17% protein thô và năng lượng 11,7 MJ/kg cho năng suất trứng cao nhất.
Năm 2018, Trương Văn Phước và ctv. (2018a) đánh giá ảnh hưởng tỷ lệ các mức amino acid có lưu huỳnh đối với lysine lên 800 gà Ác đẻ trứng giai đoạn 38-50 tuần tuổi được bố trí ngẫu nhiên với 5 nghiệm thức. Kết quả cho thấy khẩu phần với amino acid có lưu huỳnh từ 0,95-1,14% không ảnh hưởng đến tỷ lệ đẻ trứng. Cũng vào năm 2018, Trương Văn Phước và ctv. (2018b) đánh giá ảnh hưởng của các tỷ lệ khác nhau giữa lysine/năng lượng trao đổi (mg lysine/kcal năng lượng) lên năng suất trứng, hiệu quả sử dụng nitơ, các thông số sinh hóa máu, chất lượng trứng của 960 gà Ác đẻ ở 32-42 tuần tuổi. Kết quả cho thấy ở khẩu phần có tỷ lệ lysine/năng lượng 0,32 gà tiêu thụ thức ăn nhiều nhất. Ngoài ra, ở khẩu phần có tỷ lệ lysine/năng lượng 0,41 và 2.750 kcal/kg cho tỷ lệ đẻ cao, khối lượng trứng lớn và giá thành sản xuất trứng giảm.
Năm 2020, Hằng và ctv. tìm ra mức bổ sung bột hoa Vạn thọ (Tagetes erecta) thích hợp trong khẩu phần ăn của 120 cá thể gà Ác đẻ giai đoạn 32-42 tuần tuổi với 5 nghiệm thức tương ứng với 5 khẩu phần gồm: thức ăn gà đẻ thương phẩm; thức ăn gà đẻ tự phối; 2,5 g/kg bột hoa; 5,0 g/kg bột hoa và 7,5 g/kg bột hoa. Kết quả cho thấy khẩu phần có 7,5 g/kg bột hoa Vạn thọ cải thiện màu lòng đỏ trứng.
Tóm lại, gà Ác là một trong các giống gà bản địa được nuôi nhiều ở ĐBSCL. Thịt và trứng gà Ác không chỉ mang lại giá trị dinh dưỡng cho người dùng mà còn có giá trị kinh tế cho người chăn nuôi. Vì thế, việc nâng cao năng suất sinh sản và tăng trưởng của giống gà này là điều rất cần thiết. Tuy nhiên, các nghiên cứu ở Việt Nam đã thực hiện trên giống gà này chủ yếu là về lĩnh vực dinh dưỡng (ảnh hưởng của các mức độ protein và năng lượng cũng như thành phần các loại thức ăn được bổ sung để tăng năng suất sinh sản). Trong khi đó, các nghiên cứu về mặt di truyền chọn giống có năng suất sinh sản cao chưa được thực hiện. Do đó, đề tài hiện tại tập trung vào lĩnh vực di truyền phân tử để xác định các gene có mối liên kết chặt chẽ đến năng suất trứng của gà Ác, qua đó ứng dụng vào thực tiễn để chọn lọc cải thiện năng suất trứng của gà Ác nuôi tại ĐBSCL.