Luận án Tiến hóa trầm tích đệ tứ đới bờ đèo Ngang – đèo Hải Vân và khoáng sản liên quan
- Người chia sẻ : vtlong
- Số trang : 180 trang
- Lượt xem : 10
- Lượt tải : 500
Các file đính kèm theo tài liệu này
luan_an_tien_hoa_tram_tich_de_tu_doi_bo_deo_ngang_deo_hai_va.pdf
- Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Tiến hóa trầm tích đệ tứ đới bờ đèo Ngang – đèo Hải Vân và khoáng sản liên quan, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên
Những đóng góp trong nghiên cứu địa chất Đệ tứ phần đất liền ven biển đều liên quan đến công tác đo vẽ bản đồ ở các tỷ lệ khác nhau. Đo vẽ ở tỷ lệ 1/200.000 có Trần Tính, Nguyễn Quang Trung (1996) thành lập bản đồ địa chất Mahaxay- Đồng Hới; Nguyễn Xuân Dương, Đỗ Văn Chi (1996) thành lập bản đồ địa chất Lệ Thuỷ- Quảng Trị. Tuy nhiên ở tỷ lệ 1/200.000 và mục tiêu là đo vẽ bản đồ địa chất chung nên các tác giả không phân chia chi tiết địa tầng Đệ tứ.
Đến giai đoạn đo vẽ bản đồ địa chất Đệ tứ tỷ lệ 1/50.000 các tác giả mới xây dựng thang địa tầng tổng hợp về trầm tích Đệ tứ: Phạm Huy Thông (1997) thành lập bản đồ địa chất Đệ tứ nhóm tờ Huế; Đỗ Văn Long (2000) thành lập bản đồ địa chất Đệ tứ tờ Quảng Trị. Các tác giả đã xây dựng cột địa tầng Đệ tứ với 5 hệ tầng: Tân Mỹ (Q11 tm); Quảng Điền (Q12-3 qđ); Phú Xuân (Q13 px); Phú Bài (Q21-2 pb); Phú vang (Q22-3 pv). Tuy nhiên thang địa tầng này vẫn theo quan điểm của Hoàng Ngọc Kỷ (1973), Ngô Quang Toàn (1988, 1991), Vũ Nhật Thắng (1994).
Năm 1991-2001 Nguyễn Biểu và Trần Nghi đã nghiên cứu và thành lập loạt bản đồ trầm tích tầng mặt và loạt bản đồ tướng đá thạch động lực trên toàn bộ đới biển nông ven bờ (0-30 nước) của Việt Nam trong đó có khu vực Đèo Ngang – Đèo Hải Vân. Đây là bản đồ lịch sử được sử dụng để đối chứng với bản đồ tướng đá thạch động lực hiện tại đã chỉ ra sự biến động trầm tích tầng mặt theo thời gian xảy ra hết sức nhanh chóng. Đặc biệt có một trường trầm tích cát mới được thành tạo do tái trầm tích vật liệu cồn cát bị xói lở trong giai đoạn mực nước biển dâng và biến đổi khí hậu cực đoan.