Luận án Tác động của kỷ luật thị trường đến chấp nhận rủi ro và hiệu quả tài chính của ngân hàng thương mại Việt Nam

  • Người chia sẻ : vtlong
  • Số trang : 287 trang
  • Lượt xem : 9
  • Lượt tải : 500

Các file đính kèm theo tài liệu này

  • luan_an_tac_dong_cua_ky_luat_thi_truong_den_chap_nhan_rui_ro.pdf
  • Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại

NHẬP MÃ XÁC NHẬN ĐỂ TẢI LUẬN VĂN NÀY

Nếu bạn thấy thông báo hết nhiệm vụ vui lòng tải lại trang

Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Tác động của kỷ luật thị trường đến chấp nhận rủi ro và hiệu quả tài chính của ngân hàng thương mại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên

2.3 LÝ THUYẾT VỀ HIỆU QUẢ NGÂN HÀNG.2.3.1 KHÁI NIỆM VỀ HIỆU QUẢ NGÂN HÀNG.Thống nhất với định nghĩa về hiệu quả ngân hàng của Berger và Mester (1997) về “doanh thu đầu ra lớn nhất”, Coelli và cộng sự (2005) đã đưa ra định nghĩa về hiệu quả như sau: hiệu quả là năng lực hoạt động của ngân hàng khi đạt được mức sản lượng tối đa với đầu vào cho trước. Như vậy, thay vì đồng ý với Berger và Mester (1997) về “giá trị các nguồn lực đầu vào nhỏ nhất”, Coelli và cộng sự (2005) chỉ chú trọng “đầu vào cho trước”. Như vậy, có thể hiểu rằng các quan điểm về hiệu quả của các NHTM của một số nhà kinh tế học là sự so sánh tương quan các “yếu tố đầu ra” (outputs) mà ngân hàng thu được so với các “yếu tố đầu vào” (inputs) mà ngân hàng đã bỏ ra.
Ở một góc nhìn khác, Trương Quang Thông (2012) cho rằng: “có thể nói hiệu quả hoạt động của ngân hàng là kết quả lợi nhuận do hoạt động kinh doanh ngân hàng mang lại trong một thời gian nhất định”. Như vậy, hiệu quả ngân hàng được tác giả Trương Quang Thông xem xét chỉ ở khía cạnh lợi nhuận của các ngân hàng.
Từ các quan điểm của các nhà kinh tế học như trên, ta có thể hiểu hiệu quả hoạt động của NHTM theo ba góc độ: Thứ nhất, để đạt được hiệu quả, đơn vị cần phải tối thiểu hóa chi phí nhưng giá trị đầu ra lớn nhất (Berger và Mester , 1997); Thứ hai, đơn vị cần là giữ nguyên đầu vào nhưng tạo ra giá trị đầu ra tối đa (Coelli và cộng sự, 2005). Song tác giả lại nhận thấy cả hai góc độ này đều chưa thể hiện giá trị thặng dư, tức kết quả đạt được mà chỉ nhắc đến giải pháp (tăng giá trị đầu ra, tối thiểu hóa giá trị đầu vào…). Do đó, tác giả thiên về cách hiểu thứ ba: hiệu quả là giá trị thặng dư sau khi lấy giá trị đầu ra trừ cho giá trị