Luận án Tác động của hệ thống hoạch định nguồn lực doanh nghiệp đến thực hành kế toán quản trị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh trong các doanh nghiệp tại Việt Nam
- Người chia sẻ :
- Số trang : 304 trang
- Lượt xem : 8
- Lượt tải : 500
Các file đính kèm theo tài liệu này
luan_an_tac_dong_cua_he_thong_hoach_dinh_nguon_luc_doanh_ngh.docx
CV gửi Cục CNTT-BGDĐT-2023-12-26.pdf
Tóm tắt TA.docx
Tóm tắt TV.docx
Trang TTĐG TA.docx
Trang TTĐG TV.docx
- Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Tác động của hệ thống hoạch định nguồn lực doanh nghiệp đến thực hành kế toán quản trị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh trong các doanh nghiệp tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên
Theo quan điểm “Hiệu quả của một tổ chức phụ thuộc vào hiệu quả của các hệ thống con của nó, bao gồm cả kế toán quản trị” (Kondalkar, 2009). Cho đến nay, một số lượng khá hạn chế các nghiên cứu thực nghiệm điều tra mối quan hệ giữa công nghệ thông tin và kế toán quản trị với phương pháp nghiên cứu định lượng và định tính ở các nước đang phát triển, đặc biệt là Việt Nam. Vakalfotis và cộng sự, (2011) lập luận rằng “phần lớn các nghiên cứu thực nghiệm trước đây có xu hướng tập trung mô tả những thay đổi trong MAP và vai trò của kế toán quản trị trong môi trường ERPS hơn là phân tích và thay đổi chính nó. Granlund và Malmi (2002) phát triển một mô hình lý thuyết về tác động của ERPS đối với MA và kế toán. Nghiên cứu chỉ ra rằng, có tác động trực tiếp và gián tiếp của hệ thống ERP đối với kế toán quản trị. Tác động trực tiếp xảy ra khi việc triển khai ERPS trực tiếp thay đổi thực tiễn báo cáo, ví dụ. ERPS tác động gián tiếp là thay đổi thực tiễn quản lý và / hoặc quy trình kinh doanh. Rom (2008) đề xuất một mô hình lý thuyết để minh họa mối quan hệ giữa các hệ thống thông tin tích hợp và MA. Mô hình Rom (2008) chia MA thành bốn phần i) nhiệm vụ, ii) kỹ thuật, iii) tổ chức MA và iv) hành vi, sử dụng và nhận thức của người dùng. ERPS, được triển khai trong một tổ chức để cải thiện hiệu quả quy trình kinh doanh và hiệu quả tổ chức (ví dụ: Davenport, 1998; Adam và O’Doherty, 2003; Hevner và cộng sự, 2004). Tuy nhiên, để mục tiêu đạt được thì nó phụ thuộc vào một số yếu tố như khả năng của hệ thống thông tin (IS) và đặc điểm của tổ chức; quy trình kinh doanh, con người và chiến lược phát triển và quá trình thực hiện (Silver và cộng sự, 1995). Ví dụ, mô hình thành công IS, được phát triển bởi DeLone và McLean (1992), và được coi là một trong những trường hợp nổi bật của sự phát triển lý thuyết thành công và Mô hình chấp nhận công nghệ (TAM) và Lý thuyết hợp nhất về chấp nhận và sử dụng công nghệ (UTAUT) (Evermann và Tate, 2009), cho rằng, “Tác động của công nghệ thông tin đối với toàn bộ tổ chức phụ thuộc vào tác động đối với người dùng cá nhân, việc sử dụng hệ thống, chất lượng cơ bản của hệ thống và chất lượng thông tin trong hệ thống”. Do đó, DeLone và McLean (1992) coi thành công của IS là một cấu trúc bao gồm các biện pháp chất lượng (chất lượng hệ thống và thông tin), kết quả thái độ (sử dụng và hài lòng) và kết quả liên quan đến hiệu quả (hiệu ứng cá nhân và tổ chức). Việc triển khai ERPS làm thay đổi lớn trong cách làm việc kế toán (Grabski và Leech, 2007; Kallunki và cộng sự, 2011) để nâng cao hiệu quả trong công tác tổ chức (Seddon, 1997; Bernroider, 2008), người ta đề xuất rằng các khía cạnh liên quan đến nhiệm vụ (được coi là liên quan đến người dùng cá nhân) nên được đưa vào mô hình nghiên cứu như một biến độc lập chứ không phải là một biến kết quả (phụ thuộc). Dựa trên lý luận lý thuyết trên, mô hình DeLone và McLean (1992; 2003) được sử dụng làm mô hình tham chiếu và lý thuyết cơ bản trong nghiên cứu này, tuy nhiên, nó được sửa đổi để phù hợp với thiết lập hiện như một biến độc lập. Tại Việt Nam, các yếu tố môi trường, kinh tế và tăng trưởng kinh tế, cơ sở hạ tầng và khuôn khổ pháp lý ảnh hưởng đến việc triển khai CNTT/ERPS. Trong các cơ sở hạ tầng như vận tải, viễn thông, Internet và mạng nội bộ, viễn thông di động, và các hệ thống cơ sở dữ liệu công cộng, các doanh nghiệp Việt Nam chưa đáp ứng đủ điều kiện phát triển các lợi ích của ERPS. Vì thế một khuôn khổ lý thuyết khuyến khích doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ERPS là rất cần thiết. Mặt dù, một số học giả đã đóng góp khuôn khổ lý thuyết liên quan đến chủ đề ERPS tại Việt Nam. Tuy nhiên, các nghiên cứu này tập trung vào giai đoạn đầu của triển khai ERPS thành công và chưa xem xét các hiệu ứng của nó đến hệ thống phụ trong tổ chức như hệ thống KTQT, hệ thống cơ cấu doanh nghiệp và hiệu quả kinh doanh (Nguyễn Bích Liên, 2012; Phạm Trà Lam, 2018; Bùi Thị Thanh, 2014). Nghiên cứu trước một phần tập trung vào giai đoạn đầu của các khía cạnh triển khai ERPS thành công hoặc sự thay đổi KTQT. Tức là các kỹ thuật MAP được tích hợp trong ERPS như thế nào? và các kỹ thuật MAP truyền thống và hiện đại ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh như thế nào thì chưa được nghiên cứu.