Luận án Quản lý thuế đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Thành phố Hồ Chí Minh
- Người chia sẻ : vtlong
- Số trang : 212 trang
- Lượt xem : 9
- Lượt tải : 500
Các file đính kèm theo tài liệu này
luan_an_quan_ly_thue_doi_voi_cac_doanh_nghiep_co_von_dau_tu.pdf
- Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Quản lý thuế đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Thành phố Hồ Chí Minh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên
Trong những năm gần đây, quản lý thuế đối với các doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài đang trở thành chủ đề được nhiều học giả, nhiều nhà kinh tế quan tâm
nghiên cứu. Dòng vốn đầu tư nước ngoài được xem là một trong những chất xúc tác
quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế ở nhiều quốc gia, đặc biệt là các quốc gia
đang phát triển [82]. Tuy nhiên, nhiều bằng chứng học thuật và thực tiễn cho thấy
việc quản lý thuế đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chưa thật sự
hiệu quả tại nhiều quốc gia [72]. Các quốc gia đang phát triển ít có kinh nghiệm
thực tiễn trong việc ứng phó với các chiến lược hoạch định thuế tinh vi của các tập
đoàn đa quốc gia (Multinational Enterprises – MNEs). Với phạm vi hoạt động toàn
cầu và mạng lưới các bên liên kết rộng lớn, các chiến lược tránh thuế tinh vi của
các MNEs, thông qua việc thành lập các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài (doanh nghiệp FDI) và thực hiện giao dịch liên kết, đã khai thác các lỗ hổng
và sự không phù hợp trong chính sách thuế của các quốc gia để trục lợi về thuế [94].
Với những chiến lược tránh thuế này, các MNEs càng nhận được nhiều lợi ích thì
tổn thất thuế của các quốc gia càng lớn, làm tổn thất nguồn thu thuế toàn cầu [64].
Theo đó, động cơ mà nghiên cứu sinh lựa chọn và thực hiện đề tài nghiên cứu xuất
phát từ cả hai góc độ: (1) Bối cảnh thực tiễn và (2) Khoảng trống nghiên cứu.
Về bối cảnh thực tiễn, không nằm ngoài thực trạng chung của quốc gia đang
phát triển, hiệu quả quản lý thuế đối với doanh nghiệp FDI tại Việt Nam vẫn còn
nhiều hạn chế. Cùng với vốn đầu tư trong nước, FDI dần trở thành nguồn lực quan
trọng đóng góp vào những bước phát triển vượt bậc của nền kinh tế Việt Nam trong
những năm qua [88] [109] [112].Tuy nhiên, hiệu quả quản lý thuế và khai thác
nguồn thu đối với doanh nghiệp FDI ở Việt Nam vẫn còn thấp, chưa kiểm soát tốt
việc tuân thủ thuế của các doanh nghiệp này [52, tr 67, 68]. Nhiều doanh nghiệp
FDI ở Việt Nam khai báo lỗ liên tục trong nhiều năm mặc dù hoạt động sản xuất
kinh doanh thực tế vẫn mở rộng [2] [12] [40]. Điều này không những làm ngân sách
nhà nước thất thu thuế mà còn gây ra sự cạnh tranh không lành mạnh, không công
bằng giữa doanh nghiệp FDI và các doanh nghiệp trong nước.