Luận án Quản lý không gian, kiến trúc, cảnh quan các tuyến đê tại khu vực nội đô lịch sử Thành phố Hà Nội

  • Người chia sẻ : vtlong
  • Số trang : 245 trang
  • Lượt xem : 9
  • Lượt tải : 500

Các file đính kèm theo tài liệu này

  • luan_an_quan_ly_khong_gian_kien_truc_canh_quan_cac_tuyen_de.pdf
  • Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại

NHẬP MÃ XÁC NHẬN ĐỂ TẢI LUẬN VĂN NÀY

Nếu bạn thấy thông báo hết nhiệm vụ vui lòng tải lại trang

Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Quản lý không gian, kiến trúc, cảnh quan các tuyến đê tại khu vực nội đô lịch sử Thành phố Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên

Kiến trúc công trình công cộng, hỗn hợp
Các công trình kiến trúc trên tuyến CK3 (nay là đê hữu Hồng đoạn Trần Nhật
Duật đến Nguyễn Khoái) có kích thước lớn, đều đặn và quy mô hơn hẳn KP Cổ do ở
ven sông và đặt dưới sự tổ chức, quy hoạch và quản lý của chính quyền thuộc địa từ
ngày đầu chiếm đóng ở Hà Nội đó là các trụ sở, trại lính, bệnh viện phục vụ bộ máy
cai trị trong khu nhượng địa (khu Đồn thủy) mang đậm kiến trúc thời Pháp thuộc giai
đoạn đầu, Các công trình này chưa phát huy giá trị trong tổng thể tuyến đê đường
phố. Các công trình xây dựng thời kỳ này có quy mô, hình thức kiến trúc phù hợp với
không gian tuyến đường đê khi phương tiện giao thông vận tải ở đầu TK19 chủ yếu
là đi bộ với vận tốc 5-7 km/h nên đã tạo ra hình ảnh an toàn và sống động như: không
gian nhỏ, nhà cửa hình ống liền kề, các chi tiết và các hoạt động kết hợp lại làm không
gian cảnh quan phong phú, đa dạng.
Thực trạng đến nay, đã xuất hiện những kiến trúc cao tầng: văn phòng tài
chính, hỗn hợp quy mô lớn được xây dựng trên các lô đất gộp thửa từ những nhà ở
hoặc các ô đất, khu đất từ các trụ sở cơ quan có từ thời Pháp thuộc như nhà máy nước,
nhà máy điện Yên Phụ, nhà máy xay Lương Yên. việc nâng cấp các tuyến đê kết
hợp là giao thông đô thị có vận tốc cao hơn (khoảng 60 km/h) khiến công trình trở
nên cách biệt với hình ảnh kiến trúc đơn điệu, nhàm chán chưa gắn kết với không
gian xung quanh.
Kiến trúc công trình di tích, tôn giáo – tín ngưỡng
Đền, đình, chùa chủ yếu nằm trong phạm vi cách đê từ 250 – 500 mét thuộc
các ô phố tiếp giáp đê. Các công trình và quần thể di sản chưa có sự nghiên cứu, kiểm
soát chặt chẽ về hình thức kiến trúc trong không gian khu vực NĐLS dễ dẫn đến tình
trạng hiện đại hóa các công trình di tích, mất đi hình thái kiến trúc đặc trưng của các
di tích trong KP Cổ trong khu dân cư hiện hữu với những đặc trưng của vùng cửa ô,
tứ trấn và phố phường ven thành, ven sông. Khu vực phía Tây và Đông CK1 KP Cổ
có số lượng di tích tương đương nhưng riêng về chùa thì KP Cổ có 7 ngôi chùa nhưng
được phân bố chủ yếu ở phía Tây của KP Cổ (6 ngôi chùa), khu vực phía Tây KP Cổ
có mật độ chùa hơn hẳn so với khu vực
phía Đông. Vị trí các ngôi chùa theo
văn hóa người Việt phần lớn được XD
trên địa hình ổn định nhất. Điều đó,
chứng tỏ PTĐT khu vực này sớm hơn
khu vực phía Đông do lấn đê mà hình
thành về sau. Các ngôi chùa đa phần
đều có bố cục tiết kiệm tối đa không
gian, phần lớn dành khoảng đất trống
không còn “vùng đệm”, ảnh chụp phố Trần
Quang Khải (2020)
để làm sân, về chiều cao cũng rất khiêm tốn đan xen liền kề với khu dân cư khác biệt
hẳn với các ngôi chùa ở khu vực ngoài đê La thành.