Luận án Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ngành công nghiệp cho vùng Đông Nam Bộ trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế

  • Người chia sẻ :
  • Số trang : 220 trang
  • Lượt xem : 7
  • Lượt tải : 500

Các file đính kèm theo tài liệu này

  • luan_an_phat_trien_nguon_nhan_luc_chat_luong_cao_nganh_cong.pdf
  • QD_PhanTuanAnh.pdf
  • Trichyeu_PhanTuanAnh.docx
  • TT Eng PhanTuanAnh.docx
  • TT PhanTuanAnh.docx
  • Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại

NHẬP MÃ XÁC NHẬN ĐỂ TẢI LUẬN VĂN NÀY

Nếu bạn thấy thông báo hết nhiệm vụ vui lòng tải lại trang

Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ngành công nghiệp cho vùng Đông Nam Bộ trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên

Được nhìn nhận là một trong các nhà khoa học rất quan tâm đến vốn con người và vai trò của giáo dục, Adam Smith trong tác phẩm “Nguồn gốc của cải của các quốc gia” (The wealth of the Nation) đã nhấn mạnh : Giáo dục có thể là một cách thức tốt nhằm chống lại sự khốn cùng do phân công lao động liên tục gây ra và Giáo dục có thể đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra sự hài hoà xã hội. Alfred Marshall lại coi giáo dục là một loại đầu tư quốc gia và ủng hộ giáo dục nhằm cải tiến kỹ thuật. Ông chỉ ra rằng mặc dù giáo dục cơ bản ít mang lại lợi ích trực tiếp đối với tiến bộ kỹ thuật, nhưng nó khiến con người trở nên thông minh hơn, đáng tin cậy hơn trong những công việc thông thường [118]. Cùng quan điểm đó, Schultz (1961) trong tác phẩm “ Investment in human capital” đã nêu bật tầm quan trọng của việc đầu tư vào vốn con người: phần lớn thu nhập của lao động ở các nước công nghiệp hoá tăng lên nhanh chóng là do tăng trưởng vốn con người và yếu tố hạn chế sự tiến bộ của các nuớc nghèo là không đầu tư đủ vào con người”. Và một trong các hình thức đầu tư vào vốn con người chính là giáo dục chính thống từ tiểu học đến đại học và vừa học vừa làm. Có thể nói Schultz (1961) đã tiên phong và khởi xướng cho ít nhất hai loại nghiên cứu: (1) những phân tích chi phí – lợi ích của giáo dục; và (2) nghiên cứu mối quan hệ giữa tăng trưởng và vốn con người. Gary Becker (1964) cũng tìm ra nhiều cách thức khác nhau đề đầu tư cho vốn nhân lực nhưng chủ yếu vẫn thông qua giáo dục đào tạo. Từ mô hình nguyên mẫu Solow với hàm sản xuất Yt=F(Kt, Lt x At) trong đó Y là kết quả đầu ra, K là vốn, L là lao động và A là chỉ số công nghệ hoặc hiệu suất. Theo mô hình Solow thì các yếu tố tỉ lệ tiết kiệm, lao động, trình độ kỹ năng của lao động và công nghệ là những biến ngoại sinh có vai trò quan trọng trong qua quá trình tăng trưởng. Đây chính là điểm hạn chế của mô hình này. Chính vì vậy lý thuyết tăng trưởng mới trên quan điểm xem các yếu trên là các biến nội sinh (mô hình tăng trưởng nội sinh) đã ra đời với sự đóng góp của các nhà khoa học Paul Romer(1986) và Rober Lucas(1988). Mô hình này làm nổi bật vai trò quan trọng của nghiên cứu và phát triển nguồn nhân lực, bao gồm giáo dục, như là cơ chế cho việc tích luỹ kiến thức công nghệ [134]. Từ các lý thuyết trên, có thể nói, GDĐT không trực tiếp tác động đến tăng truởng của nền kinh tế, tuy nhiên nó lại có ảnh hưởng đáng kể đến vốn nhân lực và tiến bộ khoa học công nghệ, hai yếu tố quan trọng trong mô hình tăng trưởng. Theo Dwight H. Perkins, Steven Radelet, David L.Lindauer (2006, tr.98) trình độ giáo dục nâng cao và chất lượng giáo dục cải thiện đều tạo ra một lực lượng lao động có kỹ năng, làm việc nhanh hơn và hiệu quả năng suất cao hơn. Lực lượng lao động trình độ cao hơn cũng giúp thu hút nhiều đầu tư hơn, qua đó cũng góp phần tích luỹ vốn. Trình độ học vấn cao hơn cùng với tăng trưởng kinh tế là mối quan hệ hai chiều: học vấn cao hơn giúp hỗ trợ tăng trưởng và tăng trưởng tạo ra nguồn lực để tài trợ cho hệ thống giáo dục vững chắc hơn. Tuy nhiên, tác động của giáo dục đối với tăng trưởng không thể được đánh giá trong ngắn hạn vì đầu tư vào giáo dục ngày hôm nay không thể cải thiện được năng suất lao động ngay tức thì mà cần phải có thời gian dài để đánh giá.