Luận án Phát triển năng lực thực tiễn của giảng viên khoa học xã hội nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội hiện nay

  • Người chia sẻ : vtlong
  • Số trang : 225 trang
  • Lượt xem : 13
  • Lượt tải : 500

Các file đính kèm theo tài liệu này

  • luan_an_phat_trien_nang_luc_thuc_tien_cua_giang_vien_khoa_ho.doc
  • Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại

NHẬP MÃ XÁC NHẬN ĐỂ TẢI LUẬN VĂN NÀY

Nếu bạn thấy thông báo hết nhiệm vụ vui lòng tải lại trang

Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Phát triển năng lực thực tiễn của giảng viên khoa học xã hội nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên

Nguyễn Ngọc Hà, Lê Văn Mười (2011), “Khái niệm thực tiễn trong lý luận nhận thức một số vấn đề cần quan tâm” [72], nhóm tác giả cho rằng thực tiễn là hoạt động vật chất của con người, là sự tác động qua lại giữa chủ thể hoạt động với các đối tượng vật chất, hoạt động vật chất của con người có tư duy chỉ đạo. Tư duy bao gồm ý nghĩ, suy nghĩ, tư tưởng, tri thức, hiểu biết, ý thức, nhận thức lý tính tồn tại trong bộ não con người và được thể hiện thông qua hoạt động vật chất của con người. Nếu coi tư duy là vật chất được di chuyển vào trong bộ óc con người và được cải biến ở đó thì cũng có thể coi hoạt động vật chất của con người là quá trình con người di chuyển tư duy từ bộ óc ra hiện thực, đó là quá trình con người hiện thực hóa tư duy của mình. Khi thực tiễn được hiểu với nghĩa là hoạt động vật chất, thì thực tiễn là hoạt động có tư duy, có văn hóa, có mục đích, có tính xã hội và có thể cải tạo được thế giới. Trình độ tư duy con người càng cao thì càng có khả năng thực hiện được những hoạt động vật chất phức tạp. Hoạt động thực tiễn là quá trình hiện thực hóa tư tưởng, không thể nhìn thấy tư tưởng, nhưng có thể nhìn thấy kết quả của sự hiện thực hóa tư tưởng, sự thành công hay thất bại của hoạt động thực tiễn tùy thuộc chủ yếu vào sự đúng hay sai của tư tưởng, nhưng cũng còn phụ thuộc vào năng lực chủ quan của chủ thể hoạt động và điều kiện khách quan của hoạt động.
Vũ Quang Tạo (2012), “Nâng cao năng lực thực tiễn cho đội ngũ cán bộ một đòi hỏi cấp bách hiện nay” [133], tác giả quan niệm: “Năng lực thực tiễn của cán bộ có thể được hiểu là tổng thể những thuộc tính hợp thành khả năng giúp người cán bộ hoạt động thực tiễn có hiệu quả, theo yêu cầu nhiệm vụ chức trách của mình” [133, tr. 67]. Do đó, năng lực thực tiễn của người cán bộ được tạo bởi các yếu tố khả năng xác định đúng hay không đúng, phù hợp hay không phù hợp về mục đích, phương pháp, cách thức, lực lượng, động lực của hoạt động thực tiễn. Chủ thể có xác định đúng, giữ vững mục đích của quá trình hoạt động thì họ mới có kết quả, vì không cảnh giác, con người càng hoạt động càng xa mục đích của mình. Năng lực thực tiễn của người cán bộ được quan niệm là sự khơi dậy, quy tụ, sử dụng có hiệu quả các lực lượng, phương tiện để thực hiện mục đích hoạt động; thể hiện ở việc kiểm tra, đánh giá kết quả, xác định đúng nguyên nhân và rút ra bài học kinh nghiệm trong quá trình tham gia hoạt động thực tiễn, giúp người cán bộ nâng cao năng lực hoạt động của mình.