Luận án Phát triển kinh tế tư nhân trong lĩnh vực xây dựng dân dụng ở Thành phố Hà Nội

  • Người chia sẻ :
  • Số trang : 209 trang
  • Lượt xem : 6
  • Lượt tải : 500

Các file đính kèm theo tài liệu này

  • luan_an_phat_trien_kinh_te_tu_nhan_trong_linh_vuc_xay_dung_d.doc
  • 1 BIA LUẬN ÁN.doc
  • 2 BÌA TÓM TẮT TIẾNG VIỆT.doc
  • 2 TÓM TẮT TIẾNG VIỆT.doc
  • 3 BÌA TÓM TẮT TIẾNG ANH.doc
  • 3 TÓM TẮT TIẾNG ANH.doc
  • 4 THÔNG TIN MẠNG TIẾNG ANH.doc
  • 4 THÔNG TIN MẠNG TIẾNG VIỆT.doc
  • Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại

NHẬP MÃ XÁC NHẬN ĐỂ TẢI LUẬN VĂN NÀY

Nếu bạn thấy thông báo hết nhiệm vụ vui lòng tải lại trang

Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Phát triển kinh tế tư nhân trong lĩnh vực xây dựng dân dụng ở Thành phố Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên

KTTN trong lĩnh vực XDDD hoạt động trong môi trường cạnh tranh gay gắt, không chỉ giữa các đơn vị kinh tế thuộc sở hữu tư nhân mà còn cạnh tranh với các đơn vị kinh tế thuộc các thành phần kinh tế khác. Chính vì vậy, các công ty, doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực XDDD luôn phải tìm mọi cách khai thác và sử dụng các nguồn lực như lao động, vốn, đất đai, máy móc, công nghệ ngày càng hiệu quả hơn nhằm giảm tối đa chi phí sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm thì mới có thể tồn tại và đứng vững trên thị trường. Bên cạnh đó, KTTN trong lĩnh vực xây dựng dân dụng là thành phần kinh tế có nhiều loại hình tổ chức sản xuất, kinh doanh đa dạng với quy mô từ nhỏ đến lớn nên phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất từ thấp đến cao trong lĩnh vực xây dựng dân dụng. Ở Việt Nam, các đơn vị KTTN trong lĩnh vực XDDD có quy mô vừa và nhỏ nên dễ dàng huy động mọi nguồn lực về đất đai, vốn, lao động, từ đó có thể nhanh chóng gia tăng số lượng, mở rộng quy mô sản xuất, kinh doanh của các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh. Như vậy, KTTN trong lĩnh vực xây dựng dân dụng đã góp phần khai thác hiệu quả các nguồn lực về vốn, đất đai, lao động, trí tuệ, kinh nghiệm sản xuất của các địa phương. Mặt khác, do các nguồn lực của Nhà nước chưa đủ khả năng khai thác toàn bộ các lĩnh vực của nền kinh tế trong đó có lĩnh vực xây dựng dân dụng. Do vậy, để có thể khai thác các nguồn lực nhằm thúc đẩy kinh tế – xã hội phát triển, cần phải có sự tham gia của thành phần KTTN trong đó có KTTN trong lĩnh vực xây dựng dân dụng. Thực tiễn Việt Nam, Trung Quốc, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu (trước đây) đã chứng minh điều đó. Trước đây, mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh do Nhà nước tổ chức và thực hiện theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp. Vì vậy, cạnh tranh bị thủ tiêu, do đó các nguồn lực trong nền kinh tế bị khai thác một cách tùy tiện, bừa bãi; nhiều nguồn lực nhất là lao động, tài nguyên thiên nhiên không được sử dụng hết và không được sử dụng tối ưu, gây thất thoát, lãng phí. Đây là một trong những nguyên nhân làm cho Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu sụp đổ. Đối với Việt Nam, trên cơ sở nắm vững lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, Đảng ta đã sớm nhận thức ra rằng, việc xóa bỏ KTTN là một sai lầm, khuyết điểm. Từ đó, Việt Nam, Trung Quốc đã tiến hành cải cách, đổi mới, chuyển mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp sang mô hình kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, trong đó cho phép KTTN tồn tại và phát triển. Nhờ đó, kinh tế Việt Nam, Trung Quốc khởi sắc, phát triển mạnh mẽ cho đến hiện nay. Trong sự phát triển đó, KTTN trong lĩnh vực xây dựng dân dụng đã có nhiều đóng góp to lớn. Không chỉ góp phần giải quyết nhu cầu nhà ở, mà còn giúp phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội như: hệ thống đường bộ, cầu cống, bến cảng, trường học, bệnh viện, công viên, khu vui chơi, giải trí . Từ đó, tạo lập đô thị văn minh, phục vụ cho nhu cầu ngày càng cao của người dân.