Luận án Pháp tu tịnh độ qua niềm tin và thực hành của tín đồ phật giáo ở một số ngôi chùa trên địa bàn Hà Nội hiện nay

  • Người chia sẻ : vtlong
  • Số trang : 191 trang
  • Lượt xem : 4
  • Lượt tải : 500

Các file đính kèm theo tài liệu này

  • luan_an_phap_tu_tinh_do_qua_niem_tin_va_thuc_hanh_cua_tin_do.pdf
  • Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại

NHẬP MÃ XÁC NHẬN ĐỂ TẢI LUẬN VĂN NÀY

Nếu bạn thấy thông báo hết nhiệm vụ vui lòng tải lại trang

Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Pháp tu tịnh độ qua niềm tin và thực hành của tín đồ phật giáo ở một số ngôi chùa trên địa bàn Hà Nội hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên

Trong tiến trình lịch sử Phật giáo Đại thừa, nhiều pháp tu đã được các cao tăng
khám phá, truyền dạy, nhằm hướng dẫn tín đồ Phật giáo có được sự giác ngộ, giải thoát.
Trong số các pháp tu đó, pháp tu Tịnh Độ (PTTĐ) được tín đồ Phật giáo đặc biệt ưu
chuộng bởi tính uyển chuyển trong phương pháp tu tập, tính phù hợp với nhiều “hạng” tín
đồ, nhất là tín đồ Phật giáo tại gia.
Từ lâu, ở Trung Quốc và Nhật Bản, PTTĐ đã phát triển thành một tông phái Phật
giáo, gọi là Tịnh Độ tông (TĐT), với hệ thống tổ đình, tự viện và sự truyền thừa liên tục
cho đến tận ngày nay. Ở Việt Nam, PTTĐ tuy xuất hiện khá sớm trong lịch sử nhưng đến
nay vẫn chỉ tồn tại với tư cách là một pháp môn tu hành/ pháp tu. Tuy nhiên, dù không
phát triển thành một tông phái như ở Trung Quốc hay Nhật Bản, nhưng PTTĐ ở Việt Nam
vẫn có ảnh hưởng sâu rộng đến đời sống tu tập của tín đồ Phật giáo và sinh hoạt tinh thần
của người dân trên nhiều phương diện. Tiêu biểu là tư tưởng Tịnh Độ, niềm tin Phật A Di
Đà và thực hành niệm Phật luôn hiện diện trong sinh hoạt tu tập của cá nhân, nhóm/cộng
đồng tín đồ Phật giáo Việt Nam.
Đến cuối cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, ở miền Nam Việt Nam, PTTĐ đã ảnh
hưởng trực tiếp đến quá trình hình thành một số tôn giáo nội sinh như Tịnh Độ Cư Sỹ Phật
Hội, Liên Tông Tịnh Độ Non Bồng, Hệ phái Khất Sỹ,.; ở miền Trung là sự ra đời của các
Niệm Phật Đường; và ở miền Bắc là các đạo tràng niệm Phật (ĐTNP) với những quy tắc,
nghi lễ, phương pháp thực hành niệm Phật riêng, nhằm đáp ứng nhu cầu một bộ phận tín
đồ Phật giáo. Nhưng cũng do bối cảnh lịch sử, các đạo tràng niệm Phật này dần dần bị mai
một, chỉ duy trì sinh hoạt tu tập với tên gọi là Hội quy, Hội Bà vãi, Tổ Di Đà với quy mô
nhỏ hẹp trong các ngôi chùa.
Trong mấy thập niên trở lại đây, Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng, nhờ sự
đổi mới đã có những bước phát triển mạnh mẽ về kinh tế. Sự phát triển kinh tế làm cho
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đô thị hóa gia tăng và khiến cho đời sống văn hóa
xã hội có nhiều biến đổi. Trong đó có sự phục hồi của nhiều loại hình tín ngưỡng, tôn giáo
nhằm đáp ứng nhu cầu tâm linh ngày càng cao của người dân. Bên cạnh đó, năm 2008,
tỉnh Hà Tây được sáp nhập vào Hà Nội và Hà Nội trở thành thủ đô có diện tích, dân số lớn,
nâng cao hơn vị trí, vai trò trung tâm chính trị, văn hóa, tôn giáo của cả nước.
Với Phật giáo Hà Nội, sau khi sáp nhập Hà Tây, số lượng tín đồ không chỉ tăng
nhanh mà các hình thức, nội dung sinh hoạt của Phật giáo trên địa bàn cũng trở nên phong
phú, đa dạng. Đó là sự ra đời của nhiều câu lạc bộ, khóa tu, đạo tràng,. nhằm đáp ứng nhu
cầu của nhiều thành phần, lứa tuổi. Trong nhóm các đạo tràng thì đạo tràng niệm Phật
(ĐTNP) và đạo tràng tu Thiền tiêu biểu hơn cả về số lượng, quy mô và phần lớn các đạo
tràng này được thành lập trong các ngôi chùa.