Luận án Phân lập, tuyển chọn vi khuẩn sợi (actinobacteria) từ hải miên vùng biển hà tiên và xác định hợp chất sinh học kháng vi sinh vật gây bệnh

  • Người chia sẻ : vtlong
  • Số trang : 142 trang
  • Lượt xem : 9
  • Lượt tải : 500

Các file đính kèm theo tài liệu này

  • luan_an_phan_lap_tuyen_chon_vi_khuan_soi_actinobacteria_tu_h.pdf
  • Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại

NHẬP MÃ XÁC NHẬN ĐỂ TẢI LUẬN VĂN NÀY

Nếu bạn thấy thông báo hết nhiệm vụ vui lòng tải lại trang

Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Phân lập, tuyển chọn vi khuẩn sợi (actinobacteria) từ hải miên vùng biển hà tiên và xác định hợp chất sinh học kháng vi sinh vật gây bệnh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên

Phân loại khoa học và phân bố
Hải miên (bọt biển, sponges) có khoảng 8.000 loài, chiếm cứ hầu hết các vùng
nước trên trái đất, từ những hồ nước ngọt tới các vùng biển nhiệt đới, không trừ cả
những vùng lạnh giá ở bắc cực, chia thành bốn lớp Hexactinellida, Calcarea,
Demospongiae và Homoscleromorpha. Một vài loài hải miên thường gặp như
Petromica citrina, Amphimedon viridis, Desmapsamma anchorata, Polymastia
janeirensis, Aplysina fulva, Mycale angulosa, Hymeniacidon heliophila, Dysidea
etheria, Tethya rubra và Tethya maza, Aplysina fulva, Chondrosia collectrix,
Petromica citrina, Polymastia janeirensis, Tedania ignis, Hyrtioserecta,
Amphimedonchloros, Cơ thể hải miên có kích thước biến động rất lớn từ 3 – 10 mm
đến 1,5 – 2 m (Ereskovsky, 2010). Nhưng Hooper & van Soest (2002) cho rằng hải
miên chỉ là ngành sinh vật biển gồm khoảng hơn 15.000 loài chia thành ba lớp là
Hexactinellida, Calcarea và Demospongiae. Trong nghiên cứu của Gopi et al., (2012)
cho biết có khoảng 15.000 loài hải miên được xác định, chỉ có 1% (gần 150 loài) ở
nước ngọt (Kriska, 2013).
– Lớp Calcarea (hải miên đá vôi): Đặc điểm là các gai xương cấu tạo bằng chất
vôi màu trắng đục gồm hầu hết bọt biển có gai xương, sống bám trên đá ven bờ biển.
– Lớp Hexactinellida (hải miên sáu tia/hải miên thủy tinh): Gồm các bọt biển có
gai xương trong suốt như thủy tinh, gai đặc trưng là có dạng sáu tia và được cấu tạo
bằng SiO2.
– Lớp Demospongiae (hải miên sừng): Gồm các bọt biển có gai xương cấu tạo
bằng SiO2 hoặc spongin hoặc cả hai loại. Một vài loài không có gai xương. Lớp này
chiếm 80% số lượng loài bọt biển và khoảng 50 loài tìm thấy ở nước ngọt.
– Lớp Homoscleromorpha: Gồm các bọt biển đượ c tách ra từ lớp Demospongiae
Theo các nhà khoa học cổ sinh vật cho biết lớp Hexatinellida là lớp có địa khai
cổ nhất thuộc về kỷ đầu Proterozoic (khoảng 750 triệu năm trước) (Reitner &
Worheide, 2002); lớp Calcarea có nguồn gốc trễ hơn các lớp khác (kỷ hậ u Cambrian);
Lớp Homoscleromorpha là lớp trẻ nhất, xuất hiện vào kỷ đầu Thán kỷ (Carboniferous)
(Mehl-Janussen, 1999).
2.1.2 Đặc điểm cấu tạo
Hải miên là những sinh vật biển xuất hiện trên trái đất khá lâu, cách đây hơn 580
triệu năm (Li et al., 1998), sống thành cộng đồng ở nơi nước biển trong, sạch, nông
6
(Watson & Barnes, 2004). Đây là ngành động vật đơn giản và nguyên thủy nhất, có
những mô khác nhau nhưng không có cơ, hệ thần kinh, cơ quan bên trong, hay khả
năng vận động. Hải miên đã từng được xem là đ ã tách ra từ các động vật khác trước
đây, tuy nhiên, chúng thiếu tổ hợp phức tạp được tìm thấy trong hầu hết các ngành
động vật khác. Các tế bào của hải miên khác biệt nhưng trong hầu hết các trường hợp
không được tổ chức thành các mô riêng biệt. Động vật thân lỗ thường ăn bằng cách
hút nước qua mạng lưới các lỗ trong đó có nhiều vi khuẩn trong nước biển bằng bơm
một thể tích nước rất lớn (24 m3/kg/ngày) (Kennedy et al., 2009). Hải miên có các tế
bào không chuyên, các tế bào có thể chuyển đổi thành các loại khác và thường di
chuyển giữa các lớp tế bào chính và mesohyl trong quá trình này. Thay vào đó, hầu hết
số này dựa vào việc duy trì một dòng chảy liên tục qua cơ thể để lấy thức ăn, ôxy cũng
như loại bỏ chất thải (Hình 2.1 và Hình 2.2).