Luận án Nghiên cứu thực trạng và đề xuất giải pháp tạo quỹ đất phục vụ phát triển kinh tế – Xã hội tại thành phố Thái nguyên, tỉnh Thái Nguyên

  • Người chia sẻ :
  • Số trang : 204 trang
  • Lượt xem : 8
  • Lượt tải : 500
  • Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại

NHẬP MÃ XÁC NHẬN ĐỂ TẢI LUẬN VĂN NÀY

Nếu bạn thấy thông báo hết nhiệm vụ vui lòng tải lại trang

Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Nghiên cứu thực trạng và đề xuất giải pháp tạo quỹ đất phục vụ phát triển kinh tế – Xã hội tại thành phố Thái nguyên, tỉnh Thái Nguyên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên

Đất đai là một loại tài nguyên quý của quốc gia vì đất đai vừa là hàng hóa, vừa là tài sản, vừa là tư liệu sản xuất đặc biệt. Để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội của đất nước qua từng giai đoạn, pháp luật đất đai của Việt Nam đã có những quy định ngày một cụ thể, rõ ràng đối với việc tạo quỹ đất thông qua hình thức Nhà nước thực hiện thu hồi đất và nhà đầu tư thỏa thuận với người sử dụng đất để có quỹ đất tiếp tục thực hiện dự án đầu tư. Chế độ sở hữu đất đai tại Việt Nam đặc biệt, vì đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước làm đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Xuất phát từ chế độ sở hữu về đất đai, các quyền và nghĩa vụ của Nhà nước với vai trò người đại diện chủ sở hữu đã được quy định ngày một rõ ràng, cụ thể hơn như là quyền của Nhà nước trong việc trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất bằng các quyết định giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất và quyền được thu hồi lại quyền sử dụng đất. Pháp luật đất đai quy định việc Nhà nước giao đất, cho thuê đất đối với đất đang có người sử dụng cho người khác chỉ được thực hiện sau khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định thu hồi đất và thực hiện xong việc bồi thường, giải phóng mặt bằng, đây là nội dung rất quan trọng trong việc bảo đảm quyền lợi cho người đang sử dụng đất. Đến năm 2014, diện tích đất đã đưa vào khai thác sử dụng cho các mục đích nông nghiệp, phi nông nghiệp của cả nước là 30.964.630 ha đất (chiếm 93,48% tổng diện tích tự nhiên của cả nước), của tỉnh Thái Nguyên là 347.925 ha đất (chiếm 98,64% tổng diện tích tự nhiên của tỉnh Thái Nguyên) và của thành phố Thái Nguyên là 18.474,6 ha (chiếm 99,1% tổng diện tích tự nhiên của thành phố Thái Nguyên). Trong khi, hàng năm vẫn có rất nhiều các dự án đầu tư có nhu cầu sử dụng đất đầu tư mới trên phạm vi cả nước, trong đó có thành phố Thái Nguyên. Để có quỹ đất cho nhà đầu tư khai thác sử dụng bắt buộc phải thực hiện tạo quỹ đất. Khi đó, cơ chế tạo quỹ đất được thực hiện theo hai hình thức, một là Nhà nước thu hồi đất, sau đó giao cho nhà đầu tư; hai là nhà đầu tư thỏa thuận với người sử dụng đất để có quyền sử dụng đất (Đặng Hùng Võ, 2010). Ngoài ra, để Nhà nước có thể thu về được lượng địa tô từ tài nguyên đất đai lớn nhất, chủ động điều tiết được thị trường sơ cấp về quyền sử dụng đất,2 giúp nhà đầu tư tiếp cận quỹ đất đai nhanh nhất thì Nhà nước cần phải chủ động tạo quỹ đất ngay sau khi phương án quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt. Qua đó cho thấy, tạo quỹ đất có vai trò quan trọng trong thực hiện mục tiêu trên của Chính phủ Việt Nam.