Luận án Nghiên cứu quy trình nuôi nấm đông trùng hạ thảo (cordyceps militaris) có nguồn gốc từ Nhật bản tại Trà Vinh

  • Người chia sẻ : vtlong
  • Số trang : 61 trang
  • Lượt xem : 13
  • Lượt tải : 500
  • Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại

NHẬP MÃ XÁC NHẬN ĐỂ TẢI LUẬN VĂN NÀY

Nếu bạn thấy thông báo hết nhiệm vụ vui lòng tải lại trang

Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Nghiên cứu quy trình nuôi nấm đông trùng hạ thảo (cordyceps militaris) có nguồn gốc từ Nhật bản tại Trà Vinh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên

Ngày nay, nhu cầu sử dụng các thảo dược có nguồn gốc từ thiên nhiên như: Đông trùng hạ thảo, nấm Linh chi, Nhân sâm, Sâm Ngọc Linh, để phòng và trị bệnh đã trở nên phổ biến. Trong đó, đông trùng hạ thảo đươc xem ̣ là loại thảo dược thượng hạng trong các loại thảo dược. Đông trùng hạ thảo là tên gọi chung cho một nhóm nấm ký sinh và gây bệnh trên côn trùng. Cuối mùa thu đầu mùa đông, chúng ký sinh gây bệnh trên côn trùng. Đến mùa hạ, khi nhiệt độ tăng lên, nấm phát sinh thành quả thể mọc giống như cây cỏ. Nấm Cordyceps được gọi là “Đông trùng hạ thảo” đã được sử dụng như là loại dược liệu dân gian truyền thống và là thành phần thực phẩm có tác dụng tăng cường hệ thống miễn nhiễm, phục hồi năng lượng tương tự nhân sâm của các quốc gia Châu Á như Hàn Quốc, Nhật Bản và Trung Quốc. Phần dược tích của đông trùng hạ thảo được chứng minh là do chất chiết xuất từ nấm Cordyceps. Giống Cordyceps với hơn 300 loài có khả năng hình thành quả thể (Kobayashi, 1941; Petch, 1936) trong đó khoảng 78 loài đã được chọn lọc và định danh theo loại ký chủ và hình dạng quả thể (Sung, 1996). Tuy nhiên, chỉ một vài loài được chọn lọc có khả năng sử dụng làm dược liệu bao gồm Cordyceps sinensis, C. militaris, C. ophioglossoides, C. sobolifera, C. liangshanensis, và C. cicadicola (Ying el al., 1987). Trong đó, 2 loài đã được sử dụng rộng rãi trong y học cổ truyền châu Á là Cordyceps sinensis và C. militaris. Mặc dù loài Cordyceps sinensis đã được sử dụng từ rất lâu nhưng chúng có giá thành rất cao do rất khó để nuôi trồng mà chỉ được thu hái ngoài tự nhiên với sản lượng rất thấp. Trong khi đó, loài C. militaris ngày càng được sử dụng phổ biến hơn và có thể được nuôi cấy trên môi trường nhân tạo vớ i thành phần cơ chất chủ yếu là các loai ng ̣ ũ cốc chủ yếu là gạo lức (Sung et al., 1999) và trên ký chủ nhộng tằm. Điểm đặc biệt quan trọng là loài C. militaris cũng chứa các chất có hoạt tính sinh học đặc biệt là Cordycepinchất có khả năng chống ung thư giống như ở loài Cordyceps sinensis.