Luận án Nghiên cứu một số biện pháp pháp kỹ thuật phòng chống xâm nhiễm của nấm aspergillus flavus gây độc tố aflatoxin đối với lạc

  • Người chia sẻ :
  • Số trang : 175 trang
  • Lượt xem : 6
  • Lượt tải : 500
  • Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại

NHẬP MÃ XÁC NHẬN ĐỂ TẢI LUẬN VĂN NÀY

Nếu bạn thấy thông báo hết nhiệm vụ vui lòng tải lại trang

Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Nghiên cứu một số biện pháp pháp kỹ thuật phòng chống xâm nhiễm của nấm aspergillus flavus gây độc tố aflatoxin đối với lạc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên

Cây lạc (Arachis hypogaea L.), Lạc là cây công nghiệp ngăn ngày có giá trị kinh tế cao, làm thực phẩm cho con người, thức ăn cho gia súc và là cây cải tạo đất rất tốt. Hạt lạc có hàm lượng dầu cao từ 48–50%, hàm lượng protein từ 25–28% và nguồn cung cấp khoáng chất, vitamin, hoạt chất sinh học, các chất kháng oxy hóa polyphenol, flavonoid và isoflavone cho con người. Cải tiến giống lạc có tiềm năng năng suất cao, có thời gian chín khác nhau, kháng bệnh và chịu hạn đã được phóng thích ở nhiều nước trên thế giới (Pasupuleti Janila et al., 2013). Nhìn chung, những thập kỷ gần đây tiêu thụ lạc tăng lên cho tất cả các mục đích sử dụng và chủ yếu lấy dầu và thực phẩm. Nhập khẩu lạc của thế giới để chế biến kẹo tăng mạnh đến 83% từ 1979-81 đến 1994- 96 (Freeman et al. 1999). Nhưng chất lượng sản phẩm yêu cầu cao hơn, đặc biệt yêu cầu về mức độ nhiễm nấm như Aspergillus (A) tạo ra đốc tố aflatoxin (B R Ntare et al., 2004). Sản xuất lạc bị ảnh hưởng bới hai yếu tố quan trọng là những tiêu chuẩn chất lượng xuất khẩu, nhập khẩu và yêu cầu của người tiêu dùng. Ảnh hưởng của yêu cầu khắc khe về tiêu chuẩn đến thương mại sản phẩm nông nghiệp như tiêu chuẩn và độc tố aflatoxin ở sản phẩm lạcj đã làm giảm sản lượng lạc của các nước châu Âu 11% khi quy định chặt về tiêu chuẩn độc tố aflatoxin và những quy định mới về tiêu chuẩn này ở lạc, thậm trí có thể giảm đến 63% ở giai đoạn tiếp theo (Tsunehiro Otsuki et al., 2001)