Luận án Nghiên cứu lựa chọn phương pháp thăm dò và đánh giá tài nguyên Urani trong cát kết bồn trũng Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam

  • Người chia sẻ : vtlong
  • Số trang : 157 trang
  • Lượt xem : 9
  • Lượt tải : 500

Các file đính kèm theo tài liệu này

  • luan_an_nghien_cuu_lua_chon_phuong_phap_tham_do_va_danh_gia.pdf
  • Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại

NHẬP MÃ XÁC NHẬN ĐỂ TẢI LUẬN VĂN NÀY

Nếu bạn thấy thông báo hết nhiệm vụ vui lòng tải lại trang

Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Nghiên cứu lựa chọn phương pháp thăm dò và đánh giá tài nguyên Urani trong cát kết bồn trũng Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên

Kết quả nghiên cứu cho thấy, khoáng sản trong vùng nghiên cứu gồm: khoáng sản nhiên liệu, khoáng sản không kim loại và khoáng sản kim loại.
– Khoáng sản kim loại: Gồm urani trong cát kết và trong than phân bố trong hệ tầng An Điềm; vàng sa khoáng phân bố trên các lưu vực sông Bung, sông Giằng và những điểm quặng vàng gốc ở khu vực Thạnh Mỹ, Tabhing huyện Giằng và ở Phước Hảo; chì – kẽm khe Rình thuộc xã Quế Phước, huyện Quế Sơn, các khoáng sản này hầu hết có quy mô nhỏ, ngoại trừ urani. Urani trong cát kết trũng Nông Sơn là khoáng sản có tiềm năng lớn đã được điều tra đánh giá, một số diện tích đã được thăm dò; đây cũng là đối tượng nghiên cứu của luận án.
Urani phân bố ở Khe Hoa – Khe Cao, Tabhing (Pà Lừa – Pà Rồng), Cà Liêng – Sườn Giữa, Chùa Đua – Khe Lốt, Đông Nam Bến Giằng
Khu Khe Hoa – Khe Cao đã được Đoàn địa chất 154 (Liên đoàn Địa chất Xạ – Hiếm) tìm kiếm đánh giá. Đây là diện tích rất có triển vọng công nghiệp đang được đưa vào kế hoạch thăm dò trong giai đoạn tiếp.
Năm 1993 -1997, Liên đoàn Xạ – Hiếm đã tiến hành tìm kiếm tỷ lệ 1: 25.000 khu vực Tabhinh trên diện tích 150km2 và khẳng định đây là khu vực có triển vọng về urani; trong đó diện tích Pà Lừa – Pà Rồng đã được thăm dò tính trữ lượng cấp 122 (năm 2021).
– Khoáng sản không kim loại: Chủ yếu là khoáng sản làm vật liệu xây dựng, bao gồm các mỏ đá hoa Thạnh Mỹ, sét An Điềm, sét Phú Nhuận và sét Kiểm Lâm. Tiếp đến là photphorit trong các trầm tích của loạt Thọ Lâm như Phương Rạnh (điểm khoáng sản làm phân bón tổng hợp CaO – P2O5, MgO), Ba Dấu, Thạch Bàn. Ngoài ra còn có điểm ngọc quý epidot ở làng Rô; các biểu hiện vàng gốc gồm mạch thạch anh sulfur có chứa vàng phân bố trong đá xâm nhập của phức hệ Bến Giằng – Quế Sơn ở khu vực Tabhing (khe Cầu Sắt, khe Vinh, ) và các mạch thạch anh sulfur trong các đá của hệ tầng Asan ở khu Duôi, khu vực Tabhing.
– Khoáng sản nhiên liệu (than đá): Trong trầm tích hệ tầng Nông Sơn đã xác định được 3 mỏ than đá là mỏ Nông Sơn, Cà Liêng – Sườn Giữa, Ngọc Kinh và 3 điểm than đá là Bến Hiên, An Điềm, Thạnh Mỹ.