Luận án Nghiên cứu kiểm soát nội bộ trong các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ tại Việt Nam

  • Người chia sẻ : vtlong
  • Số trang : 237 trang
  • Lượt xem : 5
  • Lượt tải : 500

Các file đính kèm theo tài liệu này

  • luan_an_nghien_cuu_kiem_soat_noi_bo_trong_cac_doanh_nghiep_b.pdf
  • Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại

NHẬP MÃ XÁC NHẬN ĐỂ TẢI LUẬN VĂN NÀY

Nếu bạn thấy thông báo hết nhiệm vụ vui lòng tải lại trang

Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Nghiên cứu kiểm soát nội bộ trong các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên

Vai trò quan trọng của KSNB trong quản trị doanh nghiệp trong việc ổn định,
phát triển DN đã được ghi nhận trong các nghiên cứu trước đây trên bình diện toàn thế
giới và ở Việt Nam. Các học giả nghiên cứu cho rằng một hệ thống KSNB giúp giảm
rủi ro, đảm bảo độ tin cậy của BCTC, tuân thủ luật pháp và quy định (Spira, 2003). Thế
giới đã chứng kiến rất nhiều gian lận trong BCTC được công bố như Tập đoàn Năng
lượng Enron, vụ phá sản của Tập đoàn Viễn thông Worldcom, Tập đoàn bán lẻ lớn thứ
2 nước Mỹ Kmark. Các gian lận này đã dẫn tới thiệt hại tài chính rất lớn đối với các
nhà đầu tư, và đặc biệt nó dẫn tới phá sản của DN, sa thải hàng chục ngàn nhân viên mỗi
năm. Sự gia tăng các thất bại trong kinh doanh và số lượng lớn các gian lận được công
bố rộng rãi đã khiến các DN chú trọng hơn vào KSNB của họ, tương ứng với từng bối
cảnh của DN. Đứng trước vấn đề này, Mỹ đã ban hành đạo luật Sarbanes-Oxley năm
2002, Điều 404 yêu cầu bắt buộc các DN niêm yết phải có báo cáo đánh giá tính hữu
hiệu của KSNB. Ban lãnh đạo DN chịu áp lực ngày càng gia tăng để tăng cường tính
hữu hiệu của KSNB, truyền đạt tính hữu hiệu này đến Ban Giám đốc và cổ đông (Sutton,
2006). Ban lãnh đạo phải chịu trách nhiệm thiết kế và duy trì tính hữu hiệu KSNB của
DN. Do các yêu cầu gia tăng, ban lãnh đạo có thêm trách nhiệm đánh giá, kiểm tra và
báo cáo hàng năm về KSNB của DN. Theo đó, các kiểm toán viên bên ngoài cũng chịu
trách nhiệm kiểm toán các xác nhận quản lý về tính hữu hiệu của KSNB và họ phải đưa
ra kết luận độc lập của riêng mình (Ramos, 2004).
Ngoài ra, các đối tác của DN như kiểm toán viên, nhà cung cấp và khách hàng,
Chính phủ và xã hội cũng quan tâm đến KSNB vì vấn đề này có thể ảnh hưởng đến sự
tin cậy trong báo cáo, trách nhiệm và hình thức tổ chức của DN (Rittenberg và
Schwieger, 2001). Mặc dù thực tế cho thấy KSNB là một yếu tố rất quan trọng ảnh
hưởng đến DN, nhưng các bằng chứng về tính hữu hiệu của cấu trúc KSNB trong môi
trường tổ chức gần như không tồn tại và vẫn còn là chủ đề tương đối chưa được các nhà
khoa học tập trung nghiên cứu nhiều (Kinney, 2000). Trong khi các tài liệu chuyên môn
về KSNB đã đạt được tiến bộ trong việc phát triển các khung kiểm soát quốc tế, nhưng
cho đến nay số lượng nghiên cứu KSNB vẫn chưa được nhiều.
Trong ngữ cảnh Việt Nam, các DNBHPNT Việt Nam đóng vai trò quan trọng
trong nền kinh tế. Bảo hiểm với tư cách là một loại hình dịch vụ tài chính và là một trong
những cơ chế đảm bảo an sinh xã hội trong nền kinh tế như chuyển giao rủi ro, kích2
thích tiết kiệm, đầu tư phát triển kinh tế và gián tiếp tạo công ăn việc làm cho các ngành
nghề khác. Theo số liệu thống kê của Cục quản lý giám sát BH năm 2020, thị trường
BH Việt Nam hiện nay đã có 71 DNBH, trong đó số lượng DN môi giới BH là 19, DN
tái bảo hiểm 2, DNBH nhân thọ 18, DNBHPNT 32; tổng tài sản toàn thị trường ước đạt
573.225 tỷ đồng và tổng doanh thu phí BH toàn thị trường ước đạt 185.960 tỷ đồng, với
kỳ vọng của Cục quản lý giám sát BH thị trường BH đạt tốc độ tăng trưởng trên 16,09%.
Tuy nhiên, mặc dù đạt được tốc độ tăng trưởng cao tiềm năng thị trường trường BH Việt
Nam phi nhân thọ vẫn còn ”bỏ ngỏ”.