Luận án Nghiên cứu kết quả đặt Stent đường mật qua nội soi mật tụy ngược dòng trong điều trị bệnh nhân hẹp tắc đường mật do ung thư
- Người chia sẻ : vtlong
- Số trang : 187 trang
- Lượt xem : 4
- Lượt tải : 500
Các file đính kèm theo tài liệu này
luan_an_nghien_cuu_ket_qua_dat_stent_duong_mat_qua_noi_soi_m.pdf
- Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Nghiên cứu kết quả đặt Stent đường mật qua nội soi mật tụy ngược dòng trong điều trị bệnh nhân hẹp tắc đường mật do ung thư, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên
Các phân thùy gan
Couinaud và Tôn Thất Tùng phân chia gan dựa trên cơ sở các phần gan
có cuống mạch chi phối (động mạch gan, tĩnh mạch cửa) và hệ thống dẫn lưu
(tĩnh mạch gan, đường mật) riêng biệt.
Các phân thùy gan được phân chia bởi hệ mạch của của gan. R – nhánh
phải tĩnh mạch cửa; L – nhánh trái tĩnh mạch cửa; các nhánh không được đánh
dấu minh họa giải phẫu tĩnh mạch gan. Nguồn: Juza RM. [13]
Couinaud chia gan thành thùy gan phải và gan trái tách biệt nhau bởi
rãnh chính, rãnh trục tĩnh mạch gan giữa. Gan phải bao gồm các hạ phân thùy
5,6,7,8. Hạ phân thùy 5,8 hợp thành khu cạnh giữa phải. Hạ phân thùy 6,7 hợp
thành khu bên phải. Gan trái gồm các hạ phân thùy 2,3,4. Hạ phân thùy 2 là
khu bên trái. Hạ phân thùy 3,4 hợp thành khu cạnh giữa trái. Năm 1998,
Couinaud chia nhỏ thùy đuôi dựa vào phân bố tĩnh mạch cửa, đường mật và
tĩnh mạch gan thành 2 phần: phần bên trái là phân thùy 1 (thùy Spiegel), phần
bên phải là phân thùy 9, lấy đường đi của tĩnh mạch gan giữa làm đường phân
chia. Bình thường thể tích gan phải chiếm 55-60% trong đó phân thùy trước
(V, VIII) và phân thùy sau (VI. VII) tương ứng chiếm 35% và 30%; gan trái
(II, III, IV) chiếm 30 – 35%, thùy đuôi chiếm khoảng 10% [14]. Dựa vào phân
bố đường mật và thể tích của các phân thùy tương ứng có thể tính thể tích gan
được dẫn lưu khi tiến hành can thiệp dẫn lưu đường mật.