Luận án Nghiên cứu diễn biến cơ cấu ký sinh trùng sốt rét và hiệu lực điều trị của Chloroquin đối với plasmodium vivax tại huyện Krông Pa, tỉnh Gia Lai
- Người chia sẻ : vtlong
- Số trang : 171 trang
- Lượt xem : 4
- Lượt tải : 500
Các file đính kèm theo tài liệu này
luan_an_nghien_cuu_dien_bien_co_cau_ky_sinh_trung_sot_ret_va.pdf
- Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Nghiên cứu diễn biến cơ cấu ký sinh trùng sốt rét và hiệu lực điều trị của Chloroquin đối với plasmodium vivax tại huyện Krông Pa, tỉnh Gia Lai, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên
Cơ cấu ký sinh trùng sốt rét tại Việt Nam
P. falciparum là loài thường gây biến chứng và TVSR cho bệnh nhân, gây dịch
theo mùa và đa kháng thuốc trên diện rộng [19]. P. vivax có phân bố địa lý rộng hơn
P. falciparum, từ vĩ tuyến 370 Bắc đến 250 Nam và hàng năm có đến 20 triệu người
mắc sốt rét do P. vivax. Dù vậy, các nghiên cứu về loài P. vivax này còn ít do đặc
điểm gây bệnh nhẹ, ít đe dọa tính mạng, mặt khác chưa nuôi cấy trên in vitro được dài
ngày vì đặc tính của chúng ưa xâm nhập HC non. P.malariae phân bố thưa thớt, tỷ lệ
nhiễm thấp. P.ovale hiếm gặp ở Việt Nam.
Các nghiên cứu về cơ cấu KSTSR ở Việt Nam còn hạn hữu, chủ yếu dựa vào các
báo cáo tình hình toàn quốc và từng khu vực. Nguyễn Thân Sanh (1975) nghiên cứu
sự phân bố KSTSR ở miền Bắc phát hiện 3 loài P. falciparum, P. vivax và P.
malariae. Vùng đồng bằng (P. falciparum 56,8%; P. vivax 43,1%); vùng Đông bắc
(P. falciparum 74,4-85,7%; P. vivax 14,3-54,5%); vùng Việt bắc (P. falciparum 74,4-
85,7% và 50-92,5%; P. vivax 14,3-54,5% và 7,5-50%; P. malariae 0,9-1,1%); vùng
12
Tây Bắc (P. falciparum 80,4-94,3%; P. vivax 8,3-58,6%; P. malariae 1,3%); Khu IV
cũ (P. falciparum 41,2-79,7%; P. vivax 20,3-58,7%; P. malariae 045-1,1%). Kết quả
này cho thấy vùng đồng bằng ven biển chủ yếu P. vivax, vùng đồng bằng nước ngọt
có dịch sốt rét thấy 2 loài P. falciparum và P. vivax với tỷ lệ gần tương đương (P.
falciparum 56,8% và P. vivax 43,1%); tỷ lệ xuất hiện P. vivax ở khu IV cũ có vẻ cao
hơn so với vùng phía Bắc, còn P. malariae thấp [32]. Lê Đức Đào và cộng sự nghiên
cứu cơ cấu KSTSR tại 3 tỉnh Lâm Đồng, Bình Phước, Đắc Lắc bằng PCR phát hiện 4
loài, cao nhất là P. falciparum (55,1%), P. vivax (37,5%), phối hợp P. falciparum + P.
vivax (28%), P. malariae (5,3%) và loài P. ovale ở cả 3 tỉnh tỷ lệ thấp (2%) [33].
Lê Thuận và cộng sự (2001) tổng kết những thay đổi cơ cấu KSTSR và diễn biến
bệnh SR tại Nghệ An trong 20 năm (1981-1999) với 50.791 KSTSR được phát hiện,
thấy tỷ lệ P. falciparum chiếm ưu thế 76,20% (38.705/50.791); P. vivax 23,38%
(11.874/50.791); nhiễm phối hợp P.falciparum + P. vivax 0,42% (212/50.791). Tuy
nhiên, theo dõi trong 9 năm, phân bố loài khác nhau tùy vùng sinh thái, P. falciparum
chiếm cao ở vùng rừng núi (83,8 ± 1,7%), thấp hơn ở vùng trung du (60,7 ±6,1%) và
đồng bằng (52,1 ±4,1%). Như vậy, ngoại trừ vùng rừng núi, trung du và đồng bằng
Nghệ An, P. vivax chiếm 40-50% gần như cân bằng P. vivax với P. falciparum [34].
Lục Nguyên Tuyên và cộng sự (2002) đánh giá thực trạng người mang trùng
không triệu chứng ở Khánh Hòa thấy P. falciparum (64,6%), P. vivax (31,9%), P.
malariae (0,9%), nhiễm P. falciparum + P. vivax (2,62%) và năm 2001 trước đó (P.
falciparum 73,9%; P. vivax 24,1%; P. malariae 0,3%; nhiễm P. falciparum + P. vivax
1,8%) thay đổi không đáng kể, P. falciparum chiếm ưu thế [35]. Trần Trọng Thể
(2011), đánh giá diễn biến KSTSR tại Quảng Bình từ 2004-2008 cho P. falciparum
chiếm (80%), P. vivax chiếm thấp hơn (20%) [36].