Luận án Nghiên cứu đặc trưng co ngót của bê tông sử dụng cát mịn phối trộn cát nghiền từ đá trong xây dựng cầu
- Người chia sẻ : vtlong
- Số trang : 199 trang
- Lượt xem : 9
- Lượt tải : 500
Các file đính kèm theo tài liệu này
luan_an_nghien_cuu_dac_trung_co_ngot_cua_be_tong_su_dung_cat.pdf
- Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Nghiên cứu đặc trưng co ngót của bê tông sử dụng cát mịn phối trộn cát nghiền từ đá trong xây dựng cầu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên
Các yếu tố ảnh hưởng đến biến dạng co ngót của bê tông có sử dụng cát mịn
phối trộn cát nghiền.
Khi phối trộn cát nghiền với cát mịn nguyên tắc phải đảm bảo đường cong cấp phối
hạt nằm trong giới hạn theo tiêu chuẩn, do đó các tính chất của bê tông về cơ bản là giống
với bê tông thông thường [7,8,9]. Tuy nhiên, cát mịn phối trộn cát nghiền, với những đặc
tính riêng của nó có ảnh hưởng đến biến dạng co ngót của bê tông ở các mặt sau: Tính
chất vật lý của cát, độ lồi lõm của bề mặt các hạt . . .; Cấu trúc và thể tích lỗ rỗng; Độ hấp
thụ nước và hàm lượng bột đá có trong cát nghiền (các hạt có kích thước 0,075mm)
Hudson 1995 [83] (theo Michael L. Leming (2008) [93] báo cáo rằng hình dạng hạt và
kết cấu bề mặt sẽ ảnh hưởng đến thể tích lỗ rỗng của hỗn hợp, do đó ảnh hưởng tới tính
chất bê tông. Nhu cầu nước phụ thuộc vào thể tích lỗ rỗng. Hudson cũng cho rằng việc sử
dụng các hạt dạng hình lập phương có thể làm giảm nhu cầu sử dụng nước và tăng tính
công tác mà không ảnh hưởng đến chất lượng.
Johansen, Laanke và Smeplass (theo Michael L. Leming (2008) [93] cho rằng cát nhân
tạo có cấp phối gần đường cong Fuller có thể được pha trộn với cát tự nhiên để cải thiện sự
làm việc và giảm lỗ rỗng giữa các hạt. Các hỗn hợp này có nhu cầu sử dụng nước thấp hơn
khi phần trăm cát nhân tạo trong hỗn hợp thấp nhưng nhu cầu sử dụng nước tăng lên khi
phần trăm cát nhân tạo tăng. Johansen và cộng sự đã kết luận rằng sự có mặt của các hạt
bị nghiền sẽ giảm sự mất nước và làm tăng khả năng chịu cắt. Họ đề nghị nên sử dụng cát
mà hạt có hình lập phương tốt, kích thước hạt nhỏ hơn 4 mm, tỷ lệ phần trăm hạt mịn cao
và cấp phối chặt như đạt được bằng đường cong Fuller.
McKeagney (1985) [91] (theo Michael L. Leming (2008) [93]) cho rằng khi xử lý
trường hợp các hạt có góc cạnh có thể tích lỗ rỗng lớn, khả thi nhất là dùng các hạt mịn
để lấp đầy các lỗ rỗng và ngăn cản sự mất nước. Một số loại cát nhân tạo có thể dẫn đến
mất nước quá mức, bề mặt thô ráp, không làm việc được và cường độ thấp.
Gaynor và Meininger [81] (theo Michael L. Leming (2008) [93] họ cho rằng cát nhân
tạo hầu hết là có độ góc cạnh và có thể tích lỗ rỗng cũng như nhu cầu nước cao hơn so
với cát tròn cạnh.
Theo Michael L. Leming (2008) [93] độ góc cạnh của cát ảnh hưởng đến đặc tích của
vữa và bê tông chủ yếu là do sự thay đổi về nhu cầu nước. Các loại cát ít góc cạnh hơn
thường được ưu tiên sử dụng, nếu có. Cát nhân tạo có xu hướng có nhiều góc cạnh hơn
cát tự nhiên do quá trình nghiền để sản xuất cát và do thiếu sự bào mòn xảy ra như đối
với cát tự nhiên. Quá trình nghiền cũng có xu hướng tạo ra một lượng đáng kể các hạt
mịn mà phải bỏ đi trừ khi được phép giữ lại trong cát nhân tạo. Bởi vì các hạt mịn chủ
yếu là bột đá thay vì đất sét hoặc các tạp chất khác, do đó tỷ lệ phần trăm cao hơn được
cho phép sử dụng trong các quy trình về cát nhân tạo. Hàm lượng hạt mịn cao hơn cũng
sẽ làm tăng nhu cầu về nước. Báo cáo cũng cho rằng nếu áp dụng phương pháp đo độ
rỗng theo ASTM C1252 [52] thì cát tự nhiên có thể tích lỗ rỗng tiêu chuẩn thấp nhất (chỉ
hơn 45%), cát nhân tạo có thể tích lỗ rỗng tiêu chuẩn cao nhất (gần 50%). Tuy nhiên, nếu
sử dụng phương pháp hình ảnh phân tích thì các hạt cát tự nhiên có thể tích lỗ rỗng thấp
nhất 44,1% cát nghiền có độ rỗng cao nhất lên đến 55,7%. Nghiên cứu này đã chứng
minh rằng hình dạng hạt của cốt liệu mịn đóng một vai trò quan trọng trong việc xác định
thể tích lỗ rỗng và thể tích lỗ rỗng của cát nghiền cao hơn so với thể tích lỗ rỗng của cát
vàng.