Luận án Nghiên cứu đặc điểm di truyền, sinh học và sinh thái học của cá bống glossogobius aureus và glossogobius sparsipapillus phân bố một số tỉnh đồng bằng sông Cửu Long
- Người chia sẻ : vtlong
- Số trang : 249 trang
- Lượt xem : 8
- Lượt tải : 500
Các file đính kèm theo tài liệu này
luan_an_nghien_cuu_dac_diem_di_truyen_sinh_hoc_va_sinh_thai.pdf
- Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Nghiên cứu đặc điểm di truyền, sinh học và sinh thái học của cá bống glossogobius aureus và glossogobius sparsipapillus phân bố một số tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên
Trên thế giới có hơn 30.000 loài cá được mô tả ở cả nước ngọt, nước lợ và nước
mặn (Ward et al., 2005), trong đó họ cá bống trắng Gobiidae được coi là một trong
những họ cá có số lượng loài rất đa dạng, chỉ đứng sau họ cá chép (Cyprinidae) với
5.840 loài (Eschmeyer et al., 2018). Các nghiên cứu đã thống kê được 2.836 loài thuộc
họ cá bống trắng (Gobiidae) trên toàn thế giới, phân bộ cá bống trên toàn thế giới có 6
họ, bao gồm 270 giống, 1500 – 2000 loài và phần lớn các loài cá bống sống ở biển thuộc
họ Gobiidae (Myers, 1991), trong phân họ Gobiinae của họ Gobiidae thì giống
Glossogobius là một trong những giống có nhiều loài nhất (Hoese & Allen, 2009). Theo
Thi (2000) đã thống kê được trên thế giới có rất nhiều công trình nghiên cứu về cá bống
như: Herre (1953) đã công bố danh mục cá biển Philippines, trong đó có 221 loài cá
bống; Koumans (1953) đã mô tả 287 loài cá bống ở vùng biển Indo – Australian và
Giống Glossogobius khá phổ biến và được tìm thấy ở nhiều quốc gia, vùng lãnh thổ, nhiều
châu lục trên thế giới và ở Việt Nam (Froese & Pauly, 2022; Truong et al., 2021). Loài
Glossogobius sparsipapillus và loài Glossogobius aureus có sự phân bố rộng rãi từ nước
mặn đến nước ngọt ở các khu vực Nam Phi, Châu Á và Châu Đại Dương (Froese & Pauly,
2022; Rainboth, 1996) và ở Việt Nam (Nguyen & Dinh, 2020; Định và ctv., 2013). Lưu
vực sông Mê Kông ghi nhận có 7 loài: Glossogobius biocellatus; Glossogobius celebius;
Glossogobius circumspectus; Glossogobius giuris; Glossogobius aureus; Glossogobius
bicirrhosus và Glossogobius sparsipapillus (Rainboth et al., 2012). Ở Việt Nam, giống
Glossogobius được ghi nhận có 5 loài (G. aureus, G. giuris, G. circumspectus, G.
sparsipapillus và G. biocellatus) (Hảo, 2005; Rainboth et al., 2012; Định và ctv., 2013).
Theo nghiên cứu giữa tổ chức bảo vệ tài nguyên môi trường của Nhật (Nagao) với Khoa
Thủy sản trường Đại học Cần Thơ về nguồn lợi thủy sản tại ĐBSCL cho thấy có hơn
183 loài cá được ghi nhận, họ cá bống (Gobiidae) có 54 loài chiếm 19% và có 03 loài
thuộc giống Glossogobius là G. aureus, G. giuris và G. sparsipapillus được mô tả (Tuấn
và ctv., 2014; Định và ctv., 2013). Giống Glossogobius gồm những loài có giá trị dinh
dưỡng nên được sử dụng làm thực phẩm (Tuấn và ctv., 2014). Tuy nhiên, theo nghiên
cứu trong tự nhiên sản lượng cá giảm đáng kể do việc khai thác quá mức bằng nhiều
phương tiện mang tính chất hủy diệt (Nhiên & Định, 2012). Vì loài cá bống phân bố
rộng rãi ở các vùng ven biển và vùng cửa sông (Quang và ctv., 2009; Định và ctv., 2013),
nên sự thay đổi của môi trường sống do tác động của biến đổi khí hậu cũng ảnh hưởng
đến sự sinh trưởng và phát triển bình thường của giống cá này.