Luận án Nghiên cứu chế tạo và tính chất lớp phủ cacbon giống kim cương DLC trên nền thép không gỉ 316L định hướng ứng dụng trong y sinh

  • Người chia sẻ : vtlong
  • Số trang : 113 trang
  • Lượt xem : 11
  • Lượt tải : 500

Các file đính kèm theo tài liệu này

  • luan_an_nghien_cuu_che_tao_va_tinh_chat_lop_phu_cacbon_giong.pdf
  • Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại

NHẬP MÃ XÁC NHẬN ĐỂ TẢI LUẬN VĂN NÀY

Nếu bạn thấy thông báo hết nhiệm vụ vui lòng tải lại trang

Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Nghiên cứu chế tạo và tính chất lớp phủ cacbon giống kim cương DLC trên nền thép không gỉ 316L định hướng ứng dụng trong y sinh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên

Tình hình nghiên cứu và chế tạo màng DLC ở nước ta còn khiêm tốn, các công bố khoa học trên các tạp chí trong nước cũng chỉ xuất hiện trong khoảng vài năm trở lại đây. Một số công trình tiêu biểu có thể kể đến: Nghiên cứu đặc tính ma sát và mài mòn của màng cacbon giống kim cương phủ bằng phương pháp phún xạ do Bùi Xuân Lâm – trường Đại học Công nghệ Thành phố Hồ Chí Minh tiến hành. Màng a-C phủ trên đế thép 440C bằng kỹ thuật magnetron với tần số radio. Điện thế đặt vào đế có giá trị thay đổi từ 20 V đến 140 V. Kết quả thể hiện độ cứng của DLC có thể lên tới 34 GPa và có hệ số ma sát rất thấp (từ 0,09 đến 0,15) [21]. Tuy nhiên, nghiên cứu này chỉ khảo sát ở điều kiện điện áp phân cực trên đế nhỏ hơn 140 V, còn khoảng giá trị trên vẫn chưa được đánh giá. Lê Văn An nghiên cứu chế tạo màng nanocomposit nền DLC, cốt là các hạt TiC bằng kỹ thuật phún xạ phản ứng [22]. Lớp phủ được hình thành nhờ sử dụng cả hai bia Ti và graphit khi phún xạ, kết hợp với quá trình cấp khí C2H2 từ bên ngoài vào. Chế độ phún xạ bằng nguồn xoay chiều với hai chế độ khảo sát, đó là: áp suất (từ 0,2 Pa đến 2 Pa) và điện áp phân cực đế (từ 20 V đến 140 V). Kết quả nghiên cứu cho thấy tốc độ phủ tăng lên khi áp suất thay đổi từ 0,2 đến 1,2 Pa và hầu như không đổi khi vượt quá 1,2 Pa. Tuy nhiên tốc độ phủ sẽ bị giảm đi khi tăng điện áp phân cực trên đế (trong khoảng từ 20 V đến 140 V). Mặt khác, các tinh thể TiC chỉ có thể hình thành trong màng DLC khi điện áp phân cực lớn hơn 80 V. Màng nanocomposit DLC có độ cứng trong khoảng từ 22 GPa đến 27 GPa, độ nhám Ra = 5÷6 nm (khi phủ trên đế Si), hệ số ma sát khô 0,17÷0,19. Mặc dù vậy, nghiên cứu chưa đề cập đến sự phân bố tỷ lệ sp3 theo chiều dày màng, cũng như mức độ bám dính giữa màng và nền. Bên cạnh đó, Lê Văn An và Bùi Xuân Lâm cũng tiến hành đánh giá sự ảnh hưởng của mật độ công suất (W/cm2) trên bia Ti đến độ nhám của các màng DLC [23]. Kết quả thể hiện độ nhám của DLC thay đổi từ 2,7 nm đến 10,6 nm và tăng lên khi hàm lượng Ti tăng. Tuy nhiên, yếu tố mật độ công suất tác động đến độ nhám chưa được đề cập đến một cách rõ ràng. Nhìn chung, các màng DLC này đã thể hiện được một số tính chất nổi bật như là: độ cứng cao, hệ số ma sát thấp, khả năng chịu ma sát và chống mài mòn tốt. Tuy nhiên rất thiếu thông tin khi tìm hiểu về loại màng này đối với các nghiên cứu trong nước. Việc nghiên cứu ứng dụng các lớp màng bảo vệ trong lĩnh vực y tế đang tiếp tục được quan tâm. Tuy nhiên cho đến nay ở trong nước vẫn chưa có công bố khoa học nào về màng DLC phủ lên thép 316L.