Luận án Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng tới khoảng cách kỳ vọng trong kiểm toán Báo cáo tài chính các công ty phi tài chính niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam
- Người chia sẻ : vtlong
- Số trang : 175 trang
- Lượt xem : 10
- Lượt tải : 500
Các file đính kèm theo tài liệu này
luan_an_nghien_cuu_cac_nhan_to_anh_huong_toi_khoang_cach_ky.pdf
- Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng tới khoảng cách kỳ vọng trong kiểm toán Báo cáo tài chính các công ty phi tài chính niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên
Ngày nay, kiểm toán đã trở thành nhân tố không thể thiếu trong nền kinh tế
của các quốc gia. Nhiều công ty lớn sẵn sàng chi hàng triệu đô la mỗi năm cho việc
thuê kiểm toán độc lập. Câu hỏi đặt ra là tại sao họ lại sẵn sàng chi một khoản tiền
lớn như vậy cho một cuộc kiểm toán. Một số người cho rằng đó là do luật pháp yêu
cầu bắt buộc phải kiểm toán. Tuy nhiên, câu trả lời này chỉ đúng trong một số hoàn
cảnh nhất định. Rõ ràng, kiểm toán vẫn được sử dụng trong rất nhiều trường hợp
luật pháp không yêu cầu và bản thân các công ty niêm yết trên thị trường chứng
khoán cũng đã sử dụng dịch vụ kiểm toán từ lâu, trước khi luật chứng khoán yêu
cầu điều này. Có thể nói, kiểm toán đóng một vai trò quan trọng trong việc giám sát
các mối quan hệ giữa các cổ đông, nhà quản lý, nhân viên và chủ nợ. Kiểm toán
cũng làm gia tăng niềm tin của người sử dụng đối với thông tin mà đơn vị cung cấp.
‘Nói cách khác kiểm toán không chỉ đáp ứng yêu cầu quản trị trong nội bộ doanh
nghiệp, mà còn đáp ứng cả nhu cầu của người sử dụng thông tin báo cáo tài chính
bên ngoài với trách nhiệm và sự thận trọng nghề nghiệp đúng mực.
Mặc dù mang lại nhiều ý nghĩa quan trọng cho nền kinh tế, nhưng bản thân
kiểm toán lại phải đối mặt với không chỉ các chỉ trích mà còn là các vụ kiện tụng,
yêu cầu bồi thường thiệt hại từ phía người sử dụng thông tin mỗi khi xuất hiện các
vụ sụp đổ, phá sản của các công ty, tập đoàn. Điều này dẫn đến suy giảm uy tín
nghề nghiệp kiểm toán, giảm niềm tin của người sử dụng thông tin hoặc công chúng
đối với vai trò của kiểm toán. Một trong những nguyên nhân của vấn đề này, theo
Liggio (1974) và nhiều nhà nghiên cứu khác như Porter (1993), Swift và Dando
(2002), Lee và cộng sự (2009), Fulop (2017) là do khoảng cách kỳ vọng trong kiểm
toán. Sau khi xuất hiện lần đầu tiên trong nghiên cứu của Liggio (1974), khoảng
cách kỳ vọng đã thu hút được sự quan tâm của rất nhiều nhà nghiên cứu trên thế
giới. Có nghiên cứu đã chứng minh rằng sự chỉ trích của công chúng đối với kiểm
toán viên là không đúng vì chúng xuất phát từ những kỳ vọng quá mức, hay do nhận
thức chưa đúng về bản chất, hạn chế vốn có của kiểm toán từ phía người sử dụng
thông tin khiến cho họ đặt ra những yêu cầu quá cao đối với nghề nghiệp kiểm toán
hay đánh giá chưa đúng hiệu quả thực tế công việc kiểm toán (Swift và Dando,
2002; Salehi, 2007; Enofe và cộng sự, 2013; Dibia, 2015; Awuor, 2018). Tuy nhiên,
cũng có nghiên cứu cho thấy kiểm toán viên phải chịu một phần trách nhiệm liên2
quan đến những thiệt hại của người sử dụng thông tin trên báo cáo kiểm toán vì họ
đã không có đủ nỗ lực, trình độ chuyên môn, kinh nghiệm nghề nghiệp, chưa đủ
năng lực hay vi phạm đạo đức nghề nghiệp trong quá trình thực hiện công việc của
mình (Salehi, 2007; Lee và cộng sự, 2009; Kamau, 2013; Fulop, 2017). Bên cạnh
đó, các chuẩn mực nghề nghiệp kiểm toán chưa được đầy đủ, rõ ràng cũng khiến
cho kiểm toán viên dù thực hiện theo đúng quy định vẫn không đạt được những kỳ
vọng hợp lý của người sử dụng thông tin (Salehi, 2007; Agyei và cộng sự, 2013;
Alani, 2014; Ghandour, 2019). Nhưng nhìn chung, các nghiên cứu đều tin rằng sự
tồn tại của khoảng cách kỳ vọng có ảnh hưởng rất lớn tới niềm tin của công chúng
đối với kiểm toán cũng như gây ra những vụ kiện tụng kéo dài giữa người sử dụng
thông tin với kiểm toán viên hoặc công ty kiểm toán. Porter và cộng sự (2005) đã
cho rằng khi độ tin cậy, uy tín của nghề nghiệp kiểm toán bị suy giảm đến một mức
độ nào đó, vai trò của nghề nghiệp này sẽ trở thành vô dụng. Trong một số trường
hợp, kiểm toán viên có thể cảm thấy bất mãn vì kết quả công việc mà họ thực hiện
đã không được ghi nhận, đánh giá đúng cũng như họ đang phải chịu áp lực, đòi hỏi
không hợp lý từ phía công chúng. Khoảng cách kỳ vọng không chỉ ảnh hưởng xấu
tới sự tồn tại và phát triển của ngành nghề kiểm toán mà còn gây ra những bất lợi
đáng kể đối với sự bền vững của nền kinh tế nói chung và thị trường chứng khoán
nói riêng. Onulaka (2014) đã chỉ ra rằng khoảng cách kỳ vọng có ảnh hưởng tiêu
cực tới khối lượng các giao dịch trên thị trường chứng khoán hay Farasangi và
Noghondari (2017) cho thấy khoảng cách kỳ vọng có ảnh hưởng mang ý nghĩa
thống kê đối với các khoản nợ mất khả năng thu hồi của ngân hàng. Tuy nhiên, cho
dù muốn hay không, các nhà nghiên cứu đều phải thừa nhận rằng sự tồn tại của
khoảng cách kỳ vọng là tất yếu khách quan và là một vấn đề không thể né tránh đối
với nghề nghiệp kiểm toán. Vấn đề cần thiết là phải thu hẹp khoảng cách này để xây
dựng lòng tin của các bên, đặc biệt là của công chúng đối với kết quả kiểm toán. Do
vậy, các nghiên cứu về khoảng cách kỳ vọng, tìm hiểu cấu trúc khoảng cách kỳ
vọng và các nhân tố ảnh hưởng là cần thiết, góp phần giảm khoảng cách kỳ vọng
đến mức thấp có thể chấp nhận được.