Luận án Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng thông tin Báo cáo tài chính của các doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam

  • Người chia sẻ :
  • Số trang : 244 trang
  • Lượt xem : 7
  • Lượt tải : 500

Các file đính kèm theo tài liệu này

  • luan_an_nghien_cuu_cac_nhan_to_anh_huong_den_chat_luong_thon.pdf
  • dang bao ngay 27 thang 2.pdf
  • LA_ToThiThuTrang_E.Docx
  • LA_ToThiThuTrang_Sum.pdf
  • LA_ToThiThuTrang_TT.pdf
  • LA_ToThiThuTrang_V.Docx
  • QD CS To Thi Thu Trang.pdf
  • Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại

NHẬP MÃ XÁC NHẬN ĐỂ TẢI LUẬN VĂN NÀY

Nếu bạn thấy thông báo hết nhiệm vụ vui lòng tải lại trang

Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng thông tin Báo cáo tài chính của các doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên

Cách tiếp cận này của IASB trái ngược với thực tế là hầu hết các quy định pháp lý của các quốc gia đều xây dựng định nghĩa riêng về DNNVV cho nhiều mục đích khác nhau, bao gồm các yêu cầu BCTC khác nhau, trên cơ sở hình thức pháp lý và các thước đo định lượng như doanh thu, tổng tài sản và số lượng lao động (Kozak, 2007). Do đó, các bên liên quan của DNNVV sẽ quen thuộc hơn với các định nghĩa định lượng về DNNVV hơn là DNNVV với tư cách là ‘các đơn vị không chịu trách nhiệm giải trình công khai’. Do IASB không chỉ rõ DNNVV nào được phép sử dụng các tiêu chuẩn mà để vấn đề này cho từng khu vực tài phán quyết định. Các tiêu chí để áp dụng IFRS cho SMEs có thể không nhất quán. Holgate (2007) chỉ ra rằng định nghĩa DNNVV này sẽ bao gồm các DN tư nhân và các công ty tư nhân lớn khác, có quy mô tương đương với các công ty niêm yết trên thị trường vốn và có ý nghĩa kinh tế về mặt sử dụng lao động, vốn . Do đó, câu hỏi đặt ra là liệu loại pháp nhân này có nên được phép áp dụng IFRS cho SMEs hay bắt buộc phải tuân thủ IFRS đầy đủ hoặc các CMKT khác. Vấn đề về định nghĩa DNNVV đã được Jarvis (2003) cảnh báo về việc các DN lớn chưa niêm yết nên được giải quyết như thế nào trong các chuẩn mực. Một số nhà nghiên cứu cũng cho rằng định nghĩa của IASB về trách nhiệm giải trình công khai không đủ rõ ràng để đánh giá liệu các DN có trách nhiệm giải trình công khai hay không (Ploybut, 2012). Xét về mục tiêu của BCTC của DNNVV, ngoài việc xác định tính hữu ích cho việc ra quyết định và vai trò quản lý của BCTC cho DNNVV, việc nhấn mạnh vào việc loại trừ ‘người trong cuộc’ đã được thực hiện (IASB, 2009): i) Mục tiêu của BCTC của một DNNVV là cung cấp thông tin về tình hình tài chính, hiệu quả hoạt động và các luồng tiền của DN hữu ích cho việc ra quyết định kinh tế của nhiều người dùng không có khả năng tiếp cận báo cáo một cách phù hợp để đáp ứng nhu cầu thông tin cụ thể của họ; ii) BCTC cũng cho thấy kết quả của sự quản lý của ban điều hành – trách nhiệm giải trình của ban điều hành đối với các nguồn lực được giao phó.