Luận án Mối quan hệ giữa quản trị công ty và mức độ chấp nhận rủi ro tại các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam

  • Người chia sẻ : vtlong
  • Số trang : 166 trang
  • Lượt xem : 8
  • Lượt tải : 500

Các file đính kèm theo tài liệu này

  • luan_an_moi_quan_he_giua_quan_tri_cong_ty_va_muc_do_chap_nha.pdf
  • Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại

NHẬP MÃ XÁC NHẬN ĐỂ TẢI LUẬN VĂN NÀY

Nếu bạn thấy thông báo hết nhiệm vụ vui lòng tải lại trang

Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Mối quan hệ giữa quản trị công ty và mức độ chấp nhận rủi ro tại các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên

Lý thuyết đánh đổi rủi ro – lợi nhuận chỉ rõ muốn có lợi nhuận cần phải chấp nhận
rủi ro (CNRR). Rủi ro cao hơn gắn với lợi nhuận kỳ vọng lớn hơn và ngược lại. Đối với
các công ty niêm yết (CTNY) trên thị trường chứng khoán (TTCK), lợi nhuận luôn là
một trong những mục tiêu quan trọng nhất mà công ty hướng tới. Song, trong quá trình
hoạt động thì các CTNY luôn phải đối diện với các rủi ro đa dạng về loại hình và phức
tạp về mức độ. Để hiện thực hóa được mục tiêu lợi nhuận thì các CTNY cần phải CNRR
ở một mức độ nhất định. Ở cấp độ công ty, việc CNRR ở một mức độ vừa đủ sẽ có tác
động tích cực đến sự phát triển và tăng trưởng của công ty trong từng giai đoạn ngắn
hạn hay dài hạn. Ở cấp độ quốc gia, việc các công ty CNRR khi thực hiện các hoạt động
kinh doanh, đầu tư mở rộng thị trường, tham gia vào các lĩnh vực/ ngành nghề kinh
doanh mới hay nghiên cứu, phát triển sản phẩm, là những hoạt động rủi ro nhưng cần
thiết cho sự tăng trưởng của một quốc gia. Tuy nhiên, việc theo đuổi mục tiêu lợi nhuận
cao và do đó CNRR quá mức cũng tiềm ẩn nguy cơ dẫn đến sự sụp đổ của các công ty,
tập đoàn. Những hoạt động kinh doanh rủi ro quá mức có thế dẫn đến sự sụp đổ hoặc
khủng hoảng tài chính trên phạm vi quốc gia, thậm chí toàn cầu như những gì đã xảy ra
trong cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997 hay khủng hoảng tài chính toàn cầu
năm 2008. Vì vậy, việc nghiên cứu và tìm hiểu về mức độ CNRR của các công ty đã thu
hút sự chú ý không chỉ của giới nghiên cứu mà còn của cả cộng đồng, các doanh nghiệp,
các nhà quản lý và hoạch định chính sách.
Mức độ CNRR của các CTNY chịu tác động của nhiều nhân tố, đặc biệt là quản
trị công ty (QTCT). Lý thuyết đại diện đã chỉ ra rằng trong công ty cổ phần (CTCP) luôn
tồn tại vấn đề mâu thuẫn đại diện giữa một bên là người sở hữu vốn (cổ đông của công
ty) và một bên là người sử dụng vốn (người quản lý, điều hành công ty). Các nhà quản
lý là người trực tiếp đưa ra các quyết định trong quá trình hoạt động của công ty và do
đó mang đến rủi ro cho công ty. Do không phải là người sở hữu vốn nên các nhà quản
lý có thể CNRR theo xu hướng có lợi cho cá nhân mình thay vì hướng đến lợi ích của
các cổ đông. Chẳng hạn, trong một số trường hợp nhà quản lý CNRR quá cao bởi vì họ
kỳ vọng có thể nhận về thù lao và các đãi ngộ cao gắn với yêu cầu về kết quả hoạt động
kinh doanh của công ty lớn hơn hoặc CNRR quá thấp nhằm đảm bảo an toàn và danh
tiếng của bản thân. QTCT là “những cấu trúc và quy trình trong việc định hướng và
kiểm soát công ty” (IFC, 2010) chính là cách thức để các chủ sở hữu có thể kiểm soát2
và điều chỉnh hành vi CNRR của các nhà quản lý (Fama & Jensen, 1983). QTCT hiệu
quả có thể làm giảm bớt các rủi ro quá mức trong các quyết định của nhà quản lý tác
động không tốt đến công ty. Ngược lại, khi người quản lý công ty có xu hướng né tránh
rủi ro thì sẽ làm hạn chế sự tăng trưởng của công ty. Khi đó, các nhân tố QTCT hiệu quả
và mạnh mẽ sẽ thúc đẩy các nhà quản lý công ty phải CNRR nhiều hơn. Như vậy, nghiên
cứu về mối quan hệ tác động của QTCT đến mức độ CNRR của các CTNY giúp cho
các chủ sở hữu, các cơ quan quản lý và các nhà hoạch định chính sách có hiểu biết chính
xác về mối quan hệ này. Trên cơ sở đó cải thiện QTCT ngày càng hiệu quả hơn để có
thể kiểm soát mức độ CNRR của công ty ở mức hợp lý và phù hợp trong từng giai đoạn
phát triển của công ty và nền kinh tế. Điều này đóng vai trò quan trọng vào sự tăng
trưởng ổn định của công ty nói riêng và cả nền kinh tế nói chung.