Luận án Kế toán quản trị chi phí môi trường trong các doanh nghiệp sản xuất thức ăn chăn nuôi tại Việt Nam
- Người chia sẻ : vtlong
- Số trang : 244 trang
- Lượt xem : 9
- Lượt tải : 500
Các file đính kèm theo tài liệu này
luan_an_ke_toan_quan_tri_chi_phi_moi_truong_trong_cac_doanh.pdf
- Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Kế toán quản trị chi phí môi trường trong các doanh nghiệp sản xuất thức ăn chăn nuôi tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên
Hiện nay, vấn đề môi trường được coi là cốt lõi trong phát triển bền vững của
mỗi quốc gia và mọi tổ chức trong nền kinh tế. Để hướng tới phát triển bền vững, các
doanh nghiệp phải đảm bảo hài hòa giữa hiệu quả kinh tế và hiệu quả môi trường. Do
đó, ngoài việc phải đổi mới quy trình sản xuất, tăng cường nghiên cứu và phát triển
các sản phẩm thân thiện với môi trường nhằm đáp ứng nhu cầu của khách hàng, yêu
cầu của các bên liên quan và nâng cao hình ảnh của doanh nghiệp thì các doanh nghiệp
còn phải chấp hành các quy định liên quan đến bảo vệ môi trường ngày càng chặt chẽ,
khắt khe hơn của cơ quan quản lý nhà nước và cộng đồng dân cư. Chính những điều
này dẫn đến làm tăng các khoản chi phí môi trường đối với các doanh nghiệp và việc
bỏ qua hoặc cung cấp không chính xác thông tin chi phí môi trường sẽ ảnh hưởng đến
các quyết định trong kinh doanh. Để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về thông tin của
nhà quản trị và các bên liên quan và giúp doanh doanh nghiệp thực hiện quản trị chi
phí hiệu quả thì vai trò của kế toán rất quan trọng, đòi hỏi hệ thống kế toán cũng cần
đổi mới, phát triển hoàn thiện hơn.
Vào những năm 1970 của thế kỷ XX, vai trò của kế toán trong phát triển bền
vững đã được chỉ ra và đã có những nỗ lực đầu tiên để kết hợp thông tin môi trường
vào hệ thống kế toán và đó là nền tảng ban đầu cho việc phát triển kế toán môi trường.
Vào cuối những năm 1980, mặc dù kế toán môi trường chưa được công nhận là hình
thái kế toán chính thống nhưng thực tiễn cho thấy các tổ chức có sự quan tâm nhất
định đến thông tin về chi phí môi trường trong quá trình hoạt động sản xuất kinh
doanh của mình và hệ thống kế toán đã sử dụng một số công cụ của kế toán quản trị
nhằm thu thập, phân bổ chi phí môi trường (Kaiser, 2017). Tuy nhiên, kế toán quản trị
tuyền thống đã bộc lộ rất nhiều hạn chế trong việc nhận diện và phân bổ chi phí môi
trường trong các hoạt động của doanh nghiệp. Theo hệ thống kế toán truyền thống, chi
phí môi trường thường bị “ẩn” trong chi phí sản xuất chung (UNDSD, 2001;
Rikhardsson và cộng sự, 2005; Schaltegger và cộng sự, 2006). Vì thế, hệ thống này
đưa ra một cách nhìn không cụ thể về quy mô, phạm vi phát sinh chi phí môi trường và
tác động môi trường từ các hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, dẫn đến
thông tin không được cung cấp một cách đầy đủ và chính xác (IFAC, 2005). Đây
chính là nguyên nhân thúc đẩy cho sự phát triển và hoàn thiện của kế toán truyền
thống gắn với môi trường. Cơ quan bảo vệ môi trường Hoa Hỳ (USEPA,1995) được
coi là tổ chức đầu tiên ban hành tài liệu chính thống hướng dẫn nhận diện, phân loại,2
xác định chi phí môi trường và đánh dấu cho sự phát ra đời của kế toán quản trị chi phí
môi trường (ECMA).
Kế toán quản trị chi phí môi trường được định nghĩa là quá trình thu thập, ghi
nhận, xử lý và cung cấp thông tin chi phí môi trường cho việc ra quyết định (Savage,
2001; Jing & SongQing, 2011; Mokhtar & cộng sự, 2016). Mặc dù ECMA được cho là
khắc phục được hạn chế của kế toán môi trường truyền thống và việc áp dụng ECMA
có thể dẫn đến các cơ hội tiết kiệm chi phí (Jasch, 2003; Gale, 2006), giảm thiểu rủi ro
về môi trường và xã hội (Burritt và cộng sự, 2009) cải thiện hiệu suất chất lượng, tăng
cường lợi thế cạnh tranh (Dunk, 2007; Latan & cộng sự, 2018); Thu hút nguồn nhân
lực và nâng cao uy tín của công ty (Bennett & cộng sự 200; Hansen & Mowen,
2005) Tuy nhiên, EMCA chủ yếu mới được áp dụng ở các quốc gia phát triển như
Mỹ, Châu Âu, Úc, Nhật Bản, còn ở các nước đang phát triển bao gồm cả Việt Nam thì
mức độ áp dụng ECMA còn nhiều hạn chế.