Luận án Hoàn thiện hệ thống báo cáo thường niên trong các công ty cổ phần niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam

  • Người chia sẻ :
  • Số trang : 210 trang
  • Lượt xem : 6
  • Lượt tải : 500
  • Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại

NHẬP MÃ XÁC NHẬN ĐỂ TẢI LUẬN VĂN NÀY

Nếu bạn thấy thông báo hết nhiệm vụ vui lòng tải lại trang

Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Hoàn thiện hệ thống báo cáo thường niên trong các công ty cổ phần niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên

Thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam ñang là môi trường còn rất mới mẻ, hấp dẫn ñối với các nhà ñầu tư. Song, ñể lựa chọn mã chứng khoán ñầu tư, các nhà ñầu tư phải dựa vào rất nhiều nguồn thông tin; trong ñó, thông tin từ báo cáo thường niên (BCTN) của các tổ chức niêm yết là một trong những nguồn thông tin quan trọng, ñáng tin cậy ñể các nhà ñầu tư ra quyếtñịnh. Báo cáo tài chính (BCTC) và BCTN phản ánh khả năng và tiềm lực tài chính, anninh tài chính và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp (DN). Phân tích và ñánh giá các chỉ tiêu tài chính thông qua các BCTN của các công ty cổ phần (CTCP) niêm yết là cách thức mà nhà ñầu tư “chọn mặt gửi vàng” có cơ sở, tránh tình trạng ñầu tư theo kiểu “tâm lý”, “ñám ñông”. TTCK tập trung ở Việt Nam chính thức ñi vào hoạt ñộng từ tháng 7 năm 2000, cách ñây khoảng hơn 10 năm. Nếu so với các nước phát triển trên thế giới, TTCK Việt Nam còn rất non trẻ. Tại những phiên giaodịch chứng khoán (GDCK) ñầu tiên, ngày 28/07/2000, TTCK Việt Nam mới chỉ có2 CTCP niêm yết. Tính ñến năm 2005, số lượng các CTCP niêm yết ñã lên tới 27 DN; trong ñó, 20 công ty niêm yết ñược hình thành từ cổ phần hoá doanh nghiệp nhànước (DNNN) [26, tr.81]. Hệ thống thông tin trong giai ñoạn này của các công tycòn chịu ảnh hưởng nhiều của hệ thống quản lý cũ, quan ñiểm, tư tưởng dựa vào ngân sách nhà nước cấp. Từ năm 2006 ñến nay, TTCK Việt Nam ñã có những bước phát triển mạnh mẽ cả về quy mô và chất lượng, với sự tham gia ñông ñảo của các tổ chức niêm yết, nhà ñầu tư. Hàng hóa trên thị trường và các công ty môi giới ngày càng tăng. ðến nay, số lượng DN niêm yết trên cả 2 sàn Thành phố Hồ Chí Minh (TP. HCM) và Hà Nội vào khoảng 600 doanh nghiệp. Cùng với sự phát triển ngày càng mạnh của TTCK Việt Nam, yêu cầu về công khai, minh bạch trong công bố thông tintrên phạm vi rộng và kịp thời ñã trở thành bắt buộc với các công ty niêm yết. Tuy nhiên, các thông tin công bố của các công ty niêm yết Việt Nam còn thiếu tính minh bạch.Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) phối hợp với Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) tháng 6 2 năm 2006 ñã công bố bản báo cáo ñánh giá tình hình quản trị của các công ty Việt Nam, trong ñó, nguyên tắc về công bố thông tin và tính minh bạch của thông tin về cơ bản không ñược các công ty Việt Nam tuân thủ [26, tr.81]. Luật Chứng khoán Việt Nam ñã quy ñịnh tại khoản 1 và 2 ðiều 16, trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày có báo cáo tài chính (BCTC) năm ñược kiểm toán, công ty ñại chúng phải công bố thông tin ñịnh kỳ về BCTC năm. Theo quy ñịnh về công bố thôngtin tại khoản 1 mục II của Thông tư số 09/2010/TT-BTC ngày 15 tháng 01 năm 2010 của Bộ Tài chính, thời hạn hoàn thành BCTC năm chậm nhất 90 ngày kể từ ngày kết thúc năm tài chính và thời hạn nộp BCTN chậm nhất là 20 ngày kể từ ngày kết thúc thời hạn hoàn thành báo cáo tài chính. Song, trên thực tế, BCTN còn ñến chậm với các nhà ñầu tư. BCTN ñóng vai trò rất quan trọng, nó là ngôn ngữ của hoạt ñộng kinh doanh của các CTCP niêm yết mà nhờ có ngôn ngữ ñó, nhà ñầu tư mới có cơ sở ñưa ra ñược quyết ñịnh ñúng ñắn, kịp thời. Ở Việt Nam, việc quy ñịnh về công bố BCTN ñối với các tổ chức niêm yết mới xuất hiện từ năm 2007 tại Thông tư 38/TT-BTC BTC ngày 18 tháng 4 năm 2007 và sau ñó ñược sửa ñổitheo Thông tư số 09/TTBTC ngày 15 tháng 01 năm 2010 của Bộ Tài chính. Tuynhiên, qua thời gian thực hiện công bố thông tin, các BCTN của các CTCP niêm yết còn bộc lộ nhiều hạn chế, thiếu thống nhất và chưa hoàn chỉnh, gây nhiềukhó khăn cho các nhà ñầu tư và những người sử dụng thông tin. Ngoài ra, thông tin trên BCTN hiện tại chưa thích hợp cho phân tích, ñánh giá hiệu quả kinh doanh mà vẫn thiên nhiều về phục vụ nhu cầu kiểm soát của Nhà nước. ðiều này một mặt do hệ thống BCTN chưa thực sự khoa học, hợp lí và thống nhất, mặt khác do bản thân các công ty niêm yết chưa nhận thức ñúng về vai trò của BCTN. Vì thế, việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống BCTN của các CTCP niêm yết trên TTCK ñang là vấn ñề cấp bách và cần thiết phục vụ việc ra quyết ñịnh của các nhà ñầu tư chứngkhoán, góp phần ñưa TTCK Việt Nam ñi vào ổn ñịnh, ñúng hướng và hội nhập. Xuất phát từ vai trò quan trọng của hệ thống BCTN trong các CTCP niêm yết, sau một thời gian nghiên cứu, tác giả lựa chọnñề tài: “Hoàn thiện hệ thống báo cáo thường niên trong các công ty cổ phần niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam”ñể làm luận án tiến sĩ của mình.