Luận án Hiệu quả can thiệp thay đổi kiến thức, thái độ, thực hành phòng chống nhiễm khuẩn đường sinh sản ở học sinh tuổi vị thành niên tại Kim bảng, Hà nam, 2015 – 2016

  • Người chia sẻ :
  • Số trang : 199 trang
  • Lượt xem : 7
  • Lượt tải : 500
  • Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại

NHẬP MÃ XÁC NHẬN ĐỂ TẢI LUẬN VĂN NÀY

Nếu bạn thấy thông báo hết nhiệm vụ vui lòng tải lại trang

Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Hiệu quả can thiệp thay đổi kiến thức, thái độ, thực hành phòng chống nhiễm khuẩn đường sinh sản ở học sinh tuổi vị thành niên tại Kim bảng, Hà nam, 2015 – 2016, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên

Nhiễm khuẩn đường sinh sản (RTIs) được xem là một đại dịch ―thầm lặng‖ do nhiều trường hợp nhiễm khuẩn không triệu chứng. Đây là nguồn truyền bệnh nguy hiểm cho cộng đồng, đồng thời chính người mắc cũng bị những biến chứng do không được điều trị kịp thời. Đặc biệt, nếu mắc RTIs ở lứa tuổi vị thành niên (VTN) mà không được điều trị kịp thời, những biến chứng của bệnh sẽ xuất hiện khi các em trưởng thành, gây hậu quả nghiêm trọng cả về thể chất, tinh thần và xã hội của VTN. Tuổi VTN là một lứa tuổi đặc biệt trong cuộc đời mỗi người. Đây là giai đoạn chuyển tiếp t tuổi ấu thơ sang tuổi trưởng thành. lứa tuổi này cơ thể chưa phát triển hoàn chỉnh về mặt tâm sinh lý nên rất dễ có những kiến thức lệch lạc, thái độ tiêu cực và hành vi nguy cơ đối với sức khỏe. RTIs càng trở thành mối đe dọa lớn đối với sức khỏe sinh sản (SKSS) khi VTN thiếu kiến thức về phòng chống RTIs, có thái độ và thực hành phòng chống RTIs kém. Nghiên cứu của Nguyễn Thị Tuyền cho thấy có 68,1% học sinh có kiến thức chưa đạt về triệu chứng các bệnh nhiễm khuẩn lây truyền qua đường tình dục (STIs) [24]. Nghiên cứu của Nguyễn Thị Huyền Thương và cộng sự chỉ ra có 68,5% học sinh nữ thực hành vệ sinh bộ phận sinh dục (BPSD) không đúng cách [18]. Ngoài ra, các nghiên cứu tại Ấn Độ cho thấy đa số nữ sinh viên thực hành vệ sinh kinh nguyệt (VSKN) không đạt yêu cầu [31], [36]. Để góp phần cải thiện KAP phòng chống RTIs của VTN, các can thiệp truyền thông – giáo dục sức khỏe (TT – GDSK) đã được áp dụng ở nhiều nơi trên thế giới cũng như tại Việt Nam. Các can thiệp đều được đánh giá hiệu quả đối với thay đổi KAP phòng chống RTIs với những tiêu chuẩn đánh giá khác nhau [16], [21], [27], [56], [85], [79], [92]. Tuy nhiên, cho đến nay rất ít nghiên cứu tiến hành phân tích chi phí – hiệu quả của các can thiệp mặc dù có một nhu cầu rất lớn về loại thông tin này