Luận án Hạn chế tài chính và hành vi đầu tư của các công ty tại châu Á. Vai trò của phát triển tài chính
- Người chia sẻ :
- Số trang : 193 trang
- Lượt xem : 7
- Lượt tải : 500
Các file đính kèm theo tài liệu này
luan_an_han_che_tai_chinh_va_hanh_vi_dau_tu_cua_cac_cong_ty.docx
CV gửi Cục CNTT-BGDĐT-2023-12-26.pdf
Tóm tắt TA.docx
Tóm tắt TV.docx
Trang TTĐG TA.docx
Trang TTĐG TV.docx
- Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Hạn chế tài chính và hành vi đầu tư của các công ty tại châu Á. Vai trò của phát triển tài chính, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên
Thứ nhất, kết quả nghiên cứu cung cấp bằng chứng cho thấy có sự không đồng nhất về mức độ tác động của HCTC đến HĐĐT của DN tại các QG thuộc các nhóm TTPT khác nhau ở Châu Á thông qua việc phân tích chi tiết hơn trên từng nhóm TT khác nhau, cùng với các đặc điểm riêng của từng DN (mức độ ĐBTC, CHĐT). Cụ thể, kết quả nghiên cứu cho thấy HCTC tồn tại và nghiêm trọng nhất ở các DN thuộc TTCB. Dưới tác động của HCTC, các DN sẽ phải cắt giảm đầu tư để trang trải chi phí hoạt động (CPHĐ) vì DN khó có thể tiếp cận với các NVBN. Chính vì vậy, việc nhận biết sự tồn tại của HCTC có ý nghĩa quan trọng trong việc ra và thực hiện các quyết định tài chính ở góc độ DN, đặc biệt là đối với các DN có dòng tiền nội bộ thấp và ĐBTC cao. Khi nhận thấy độ nhạy cảm quá mức của đầu tư với dòng tiền biểu hiện cho tình trạng HCTC trong tương lai, các DN cần cẩn trọng khi thực hiện QĐĐT. Thứ hai, LA cung cấp kết quả nghiên cứu mới khi cho thấy phát triển TCTC và phát triển TTTC phát huy vai trò với mức độ khác nhau đối với HCTC ở các nhóm TT khác nhau tại Châu Á. Đối với TTCB, kết quả nghiên cứu cho thấy, so với phát triển TCTC thì phát triển TTTC sẽ giữ vai trò quan trọng hơn trong việc làm giảm bớt ảnh hưởng của HCTC đến HĐĐT của các DN. Kết quả này hàm ý rằng, đối với các QG thuộc TTCB, nếu TTTC phát triển, chính việc thu hút được dòng vốn đầu tư nước ngoài đã giúp làm giảm tình trạng HCTC của các DN trong nước. Hơn nữa, các nhà đầu tư nước ngoài còn có thể hỗ trợ quản trị DN trong nước tốt hơn, điều này có thể gián tiếp làm giảm chênh lệch giữa chi phí sử dụng NVNB và chi phí sử dụng NVBN, từ đó, một lần nữa làm giảm thiểu tình trạng HCTC cho các DN trong nước. Thứ ba, LA cung cấp kết quả nghiên cứu mới thông qua việc tìm thấy hai nguyên nhân làm phá vỡ sự tuân thủ trật tự phân hạng khi ra QĐTT đó là do tình trạng HCTC của các DN và mức độ PTTC của QG. Cụ thể như sau: (i) Ở nhóm TTCB, HCTC là nguyên nhân phá vỡ trật tự phân hạng khi ra QĐTT. Các DN thuộc nhóm TT này vì đối mặt với HCTC nghiêm trọng, buộc phải phát hành VCP vì họ không tiếp cận được với TT nợ. Kết quả này một lần nữa khẳng định vai trò quan trọng của phát triển TTTC trong việc cung cấp thêm một kênh huy động vốn hiệu quả cho các DN khi phải đối mặt với HCTC. (ii) Ở nhóm TTPT, PTTC đã làm phá vỡ nguyên tắc trật tự phân hạng khi ra QĐTT của các DN. Đối với các DN có mức độ ĐBTC còn thấp, thay vì sử dụng NVNB, các DN lại huy động nguồn nợ vay bên ngoài để tài trợ cho các CHĐT nhằm tận dụng các lợi thế từ việc vay nợ. Tuy nhiên, khi mức độ nợ vượt ngưỡng, các DN sẽ giảm mức độ ĐBTC nhằm cân bằng lợi ích và chi phí khi vay nợ và phụ thuộc nhiều hơn vào NVNB. Cuối cùng, với những hạn chế trong phương pháp hiện tại (Pooled-OLS, FEM, REM, GLS, GMM), điểm mới tiếp theo của LA thể hiện ở phương pháp nghiên cứu được thực hiện trên mẫu lớn các QG Châu Á. LA sử dụng phương pháp PSTR được phát triển bởi González & cộng sự (2017) đã khắc phục nhược điểm của các phương pháp trên bằng cách cho hệ số hồi quy biến đổi theo một hàm liên tục được xác định dựa trên biến chuyển tiếp. Vì biến chuyển tiếp được xác định theo từng đối tượng và thời gian cụ thể, nên phương pháp này cho phép xác định các hệ số hồi quy riêng theo đối tượng và theo thời gian. Phương pháp này vừa đảm bảo kết quả hồi quy phản ánh chính xác hơn khi dữ liệu có sự thay đổi về mức độ HCTC của các quan sát trong mẫu, đồng thời thực hiện được mục tiêu nghiên cứu phân tích chi tiết cho từng nhóm TT, từng QG và thậm chí từng DN trong mẫu nghiên cứu.