Luận án Giới hạn xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam
- Người chia sẻ : vtlong
- Số trang : 178 trang
- Lượt xem : 11
- Lượt tải : 500
Các file đính kèm theo tài liệu này
luan_an_gioi_han_xet_xu_so_tham_trong_to_tung_hinh_su_viet_n.pdf
- Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Giới hạn xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên
2.1.2. Nội dung của giới hạn xét xử sơ thẩm2.1.2.1. Phạm vi truy tố của Viện kiểm sát là phạm vi giới hạn xét xử của Tòaán sơ thẩmChủ thể mà Tòa án đưa ra xét xử sơ thẩm VAHS phải là bị cáo bị Tòa án cấp sơthẩm ra quyết định đưa vụ án ra xét xử trên cơ sở quyết định truy tố của VKS. Vì thế,Tòa án chỉ được xét xử những bị cáo về những hành vi phạm tội của họ theo tội danhmà VKS đã truy tố bằng bản cáo trạng, điều đó có nghĩa là Tòa án không được xétxử thêm bị cáo và hành vi phạm tội mới khi chưa được VKS truy tố. Sự kiện pháp lýlàm phát sinh việc thực hiện thẩm quyền xét xử của Tòa án cấp sơ thẩm là quyết địnhtruy tố của VKS bằng bản cáo trạng.Truy tố của VKS vừa là căn cứ để Tòa án đưa vụ án ra xét xử, vừa là cơ sở đểkhống chế GHXX của Tòa án. Theo đó, VKS truy tố người nào, về tội gì thì Tòa ánxét xử chủ thể và tội danh đó; truy tố phải có nội dung cụ thể để ràng buộc giới hạnxét xử, tránh tình trạng Tòa án lạm dụng quyền xét xử. Sau khi hồ sơ VAHS đượcchuyển sang Tòa án cùng với bản cáo trạng của VKS, lúc này bắt đầu xuất hiện mốiquan hệ TTHS giữa hai cơ quan này. Không thể nói từ thời điểm hồ sơ chuyển sangTòa án, Tòa án có toàn quyền giải quyết mọi vấn đề của vụ án. Trong thực tế, quanhệ giữa VKS và Tòa án trong giai đoạn này trở đi là quan hệ phối hợp và quan hệ chếước lẫn nhau. Tính phối hợp giữa VKS và Tòa án thể hiện ở chỗ: cả hai cơ quan nàycùng phải xem xét lại tính căn cứ, tính hợp pháp của chứng cứ thể hiện trong hồ sơvụ án. Trong trường hợp cần thiết và những trường hợp mà VKS và Tòa án còn cónhững quan điểm bất đồng về vụ án thì Tòa án chủ trì triệu tập cuộc họp có đại diệnVKS tham gia để trao đổi, thống nhất,… Quan hệ phối hợp thể hiện trong giai đoạnchuẩn bị xét xử, tại phiên tòa không có mối quan hệ này vì Tòa án lúc này là ngườiđứng giữa hai bên, một bên buộc tội (VKS, bị hại,….) và một bên bào chữa (bị cáo,người bào chữa,…). Còn quan hệ chế ước lẫn nhau giữa VKS và Tòa án thể hiện ởchỗ: Tòa án có thể yêu cầu VKS tiến hành điều tra bổ sung, cung cấp thêm những tàiliệu và chứng cứ cần thiết khác phục vụ cho khâu xét xử tại phiên tòa.