Luận án Dạy học trên cơ sở vấn đề bài học Stem chủ đề các thể của chất môn Khoa học tự nhiên 6
- Người chia sẻ : vtlong
- Số trang : 275 trang
- Lượt xem : 4
- Lượt tải : 500
Các file đính kèm theo tài liệu này
luan_an_day_hoc_tren_co_so_van_de_bai_hoc_stem_chu_de_cac_th.pdf
- Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Dạy học trên cơ sở vấn đề bài học Stem chủ đề các thể của chất môn Khoa học tự nhiên 6, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên
Trong các thí nghiệm khác nhau, các phép đo nhiệt độ tương ứng với sự sôi,
sự nóng chảy và sự đông đặc của nước là khoảng 0°C và 100°C . Lý do giải thích cho
sự dao động này là:
Ở áp suất khí quyển tương ứng với mực nước biển, nhiệt độ thay đổi trạng thái
của nước là 0°C và 100°C đối với nước tinh khiết. Tuy nhiên, khi thực hiện các thí
nghiệm ta thường sử dụng bằng nước máy thì không thể được coi là nước tinh khiết
vì nó có chứa các loại tạp chất (muối khoáng, ion kim loại, clorua ). Vì vậy để có
nước tinh khiết ta nên sử dụng nước cất. Tuy nhiên, ngay cả trong trường hợp dùng
nước cất cũng có O2 và CO2 được tìm thấy ở trạng thái khí hòa tan trong nước. Vậy
nước ở trạng thái lỏng trong tự nhiên không thể coi là nước tinh khiết.
Các dụng cụ đo lường, nhiệt kế, không phải tất cả đều được hiệu chuẩn theo
cùng một cách nên sẽ có các giá trị khác nhau đối với phép đo của cùng một nhiệt độ.
Do đó, các dụng cụ được sử dụng cũng sẽ là nguyên nhân dẫn đến sự không chính xác
của các phép đo được thực hiện. Để HS nhận thấy sai số này ta có thể thực hiện một
bài kiểm tra dễ thực hiện như sau: để một loạt nhiệt kế cùng một lúc đặt trong lớp học,
ít nhất một giờ, để quan sát sự chênh lệch nhiệt độ được chỉ ra bởi dụng cụ.
Khi nói về chất lỏng, chất rắn hoặc chất khí, chúng ta thường sử dụng các cách
nói tắt nghĩa là vật chất ở trạng thái lỏng, vật chất ở trạng thái rắn và vật chất ở trạng
thái khí. Việc sử dụng cách nói tắt này có thể dẫn đến sự nhầm lẫn trong quá trình
tiếp nhận của HS. Ví dụ, HS có thể sẽ coi nước có đặc tính vĩnh viễn là chất lỏng.
Trong khi đó thực tế ở các điều kiện về nhiệt độ và áp suất, bất kỳ vật chất nào cũng
có thể chuyển trạng thái. Và nước cũng có thể ở trạng thái rắn (băng, đá, tuyết, v.v.)
hoặc ở trạng thái khí (hơi nước). Điều tương tự cũng xảy ra đối với các kim loại như
CO2 hoặc N. Các kim loại này không chỉ là “chất rắn” mà còn có thể là “khí”. Những
cái tên này gây hiểu lầm theo quan điểm của các trạng thái của vật chất. Trên thực tế
là trong điều kiện nhiệt độ và áp suất bình thường CO2 hoặc N là kim loại ở trạng thái
rắn và sẽ ở trạng thái khí trong môi trường cụ thể. Ví dụ, dưới áp suất khí quyển,
chúng ta thu được Nitơ lỏng bằng cách làm lạnh nitơ thể khí xuống dưới nhiệt độ sôi
của nó, khoảng −195,79 °C. N “lỏng” được sử dụng nhiều trong lĩnh vực y tế và công
nghiệp. Khí CO2 ở trạng thái rắn cho nhiệt độ dưới -78,5 °C. Dưới áp lực của không
khí và ở nhiệt độ này, nó có đặc tính riêng là tự thăng hoa, nghĩa là chuyển trực tiếp
từ từ trạng thái rắn sang trạng thái khí. Khí CO2 ở trạng thái rắn còn có tên gọi khác
là “ đá khô ” nó cũng được tìm thấy trong nhiều ứng dụng công nghiệp. Sắt ở trạng
thái lỏng cho nhiệt độ trên 1.538°C (nhiệt độ nóng chảy của sắt).