Luận án Đánh giá kết quả điều trị phối hợp Cisplatin liều thấp và xạ trị điều biến liều bệnh ung thư vòm họng giai đoạn IIb-III

  • Người chia sẻ : vtlong
  • Số trang : 192 trang
  • Lượt xem : 13
  • Lượt tải : 500

Các file đính kèm theo tài liệu này

  • luan_an_danh_gia_ket_qua_dieu_tri_phoi_hop_cisplatin_lieu_th.pdf
  • Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại

NHẬP MÃ XÁC NHẬN ĐỂ TẢI LUẬN VĂN NÀY

Nếu bạn thấy thông báo hết nhiệm vụ vui lòng tải lại trang

Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Đánh giá kết quả điều trị phối hợp Cisplatin liều thấp và xạ trị điều biến liều bệnh ung thư vòm họng giai đoạn IIb-III, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên

Các yếu tố nguy cơ
Sự thay đổi về mặt địa lý của tỷ lệ mắc ung thư biểu mô vòm họng gợi ý
một nguyên nhân đa yếu tố. Ở các vùng lưu hành, nguy cơ dường như là do sự
tương tác của một số yếu tố như yếu tố môi trường (ăn nhiều thực phẩm bảo
quản và hút thuốc).12 Tỷ lệ mắc bệnh gia tăng ở những người trẻ tuổi ở các khu
vực có nguy cơ cao và trung bình cho thấy rằng việc tiếp xúc với một tác nhân
phổ biến sớm trong đời là một yếu tố quan trọng. Ở Hoa Kỳ và Châu Âu, ung
thư biểu mô vòm họng thường liên quan đến việc sử dụng rượu và thuốc lá, đây
là những yếu tố nguy cơ cổ điển đối với các khối u ở đầu và cổ khác.12
* Yếu tố môi trường: Nghề nghiệp tiếp xúc với khói bụi, môi trường kém
thông khí, hóa chất và nhất là các hydrocacbon thơm là một trong những yếu
tố nguy cơ cao mắc bệnh UTVH. Credit và Ho đã nêu lên mối liên quan giữa ăn
nhiều cá muối và các loại thứ ăn được bảo quản bằng muối như dưa muối, trứng
muối, các loại củ muối từ khi còn nhỏ sẽ dẫn tới tăng nguy cơ mắc UTVH.
Rượu, thuốc lá cũng được xem như là các yếu tố nguy cơ gây mắc bệnh này.12
* Yếu tố sinh học: Vi rút Epstein-Barr là một trong những nguyên nhân quan
trọng nhất của UTVH đối với NB vùng dich tễ. EBV là virút thuộc nhóm
Herpes virút, được Epstein phát hiện lần đầu tiên vào năm 1964. EBV là virút
DNA, được cấu tạo bởi 1 chuỗi xoắn kép polynucleotide có trọng lượng phân
tử 108 daltons, mã hóa cho khoảng 100 acid amin khác nhau. EBV có thể gặp
ở người khỏe mạnh bình thường (> 90% dân số), và chúng xuất hiện chủ yếu
trong dịch tiết của niêm mạc vùng khẩu hầu. Mối liên quan giữa EBV và ung
thư được đề cập lần đầu tiên vào năm 1964 khi Epstein nhận thấy có sự hiện
diện của EBV trong các tế bào lymphô B của người bệnh bị u lympho Burkitt.
Người ta thấy trong bệnh Hodgkin có hơn 50% người bệnh được phát hiện có
EBV trong tế bào Reed-Sternberg. Theo Epstein, vai trò gây bệnh của EBV
đối với UTVH được nêu lên bởi Odd và cộng sự vào năm 1966. Odd nhận
thấy nồng độ kháng thể kháng EBV trong huyết thanh tăng cao ở nhiều
người bệnh UTVH. Tuy nhiên, chỉ vào khoảng những năm của thập niên
90, với sự tiến bộ của miễn dịch học và sinh học phân tử người ta mới có
thể làm sáng tỏ mối liên quan này. EBV có mặt trong cả 3 typ tế bào
UTVH: ung thư biểu mô tế bào gai sừng hóa, không sừng hóa và kém biệt
hóa. Tuy nhiên, số phiên bản DNA của EBV đo được ở ung thư biểu mô
tế bào gai sừng hóa thấp hơn rất nhiều so với loại không sừng hóa và kém
biệt hóa. Người bệnh có loại mô học không sừng hóa và kém biệt hóa tỷ
lệ dương tính lên tới 97-100%.13 Mặt khác, người ta cũng nhận thấy sự gia
tăng nồng độ kháng thể kháng thành phần kháng nguyên vỏ của EBV
(Viral Capsid Antigen -VCA) và thành phần DNAse của EBV được xem
là yếu tố dự báo nguy cơ mắc bệnh UTVH. Nghiên cứu của Chien và CS14
cho thấy nếu có sự gia tăng của 02 loại kháng thể này thì khả năng dự báo
nguy cơ mắc bệnh UTVH có thể tăng gấp 32,8 lần (p = 95%). Nhiều yếu
tố có thể gây kích hoạt EBV, như các tác nhân sinh ung trong môi trường,
khói thuốc lá hoặc tình trạng suy giảm miễn dịch. Vai trò của EBV vẫn
còn đang được nghiên cứu vì mặc dù có đến hơn 90% dân số trên thế giới
nhiễm EBV nhưng UTVH chỉ xuất hiện với tần suất cao ở một số vùng
nhất định.